Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015
Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015
MÙA THI
Mỗi lần nhìn hoa phượng nhuộm đỏ nắng hè thì bất chợt
trong tôi hiện lại ký ức mùa thi với tiếng ve râm rang trên các vòm xanh theo
các con đường Thành Nội, trong vườn nhà, trong sân trường thưa vắng bước chân học trò. Trường chưa vào nghỉ
hè mà các lớp cuối cấp cứ thưa dần học sinh. Các sỹ tử vùi đầu vào trang sách,
ngày đêm lẩm nhẩm như đọc kinh nhật tụng. Bàn học về khuya còn chong đèn. Cái
đồng hồ bàn hiệu con gà để chậm 2, 3 giờ cứ tích tắc “đánh lừa” thị giác. Các
cột điện đường trên cầu Đông Ba, cầu Gia Hội, cầu Trường Tiền trở thành nơi tụ
hội về khuya của các “nhóm văn nhân” học hành lăng nhăng. Mấy o bán chè khuya
về, chưa hết gánh tạt ngang mời mọc và ghé lại vui vẻ bán hàng, đôi khi chẳng
cần tiền trả. Tất cả hẹn lại về sau!... Mọi sở thích, vui chơi đều gác lại. Đến
tập tiểu tuyết, tạp chí ưa thích cũng chỉ nhìn qua trang bìa rồi gấp lại thật
nhanh. Và câu thơ chợt đến thì…Thôi ! Cứ ngâm nga như Xuân Diệu; “…Mùa thi đã
đến em thơ/ Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau” cho xong môt bần thần tiếc nuối.
Thành phố của tôi có vẻ như chậm lại mọi hoạt động
trong mùa thi. Phố chiều ít người dạo phố. Cái thú “đi nghễ” của nam thanh nữ
tú kinh kỳ vơi bớt cường độ. Mọi nhà dù có con cháu đi thi hay không cũng như
cùng đều chia sẻ niềm háo hức khoa cử. Đại Nội im vắng là nơi ôn tập lý tưởng
nhưng tuyệt nhiên không có bóng hồng. Các nàng “sợ ma” hổng dám! Mấy cậu thì
cũng phải năm ba chàng mới dám vào chiếm lĩnh các gốc cổ thụ để cầm sách đi
quanh, lẩm nhẩm như phù thủy đọc phù chú yểm bùa.
Thời tôi đi thi đã không còn lều chõng mà tôi cứ nhớ
mãi câu thơ của Trần Tế Xương: “Tấp tểnh
người đi tớ cũng đi/ Cũng lều cũng chõng cũng đi thi…”. Và tôi cứ nghêu
ngao câu đó đến ngày cùng bè bạn chen chúc tại trường thi dò số ký danh, phòng
thi với nhiều hồi hộp, vui buồn.
Vào trường thi, hạnh phúc cho cô cậu nào được thi tại
ngôi trường mình học. Mà cũng vui khi được ngồi cùng bàn với cả những nữ sinh.
Kiểu này mà bí bài không đáp ứng những ánh mắt e thẹn cầu cứu của nương nương
thì có nước độn thổ cho xong. Cũng thật buồn khi phải ngồi cạnh mấy ông thí
sinh tự do là lính tráng đi thi, không khéo cho mấy đấng quây cóp thì bị phá
hỏng mất bài không chừng. Một mớ kiến thức ngập tràn trong mấy bộ sách giáo
khoa lọc lại chỉ trong từng mấy câu hỏi, bài tập kiểm tra. “Tủ” kê có đúng chỗ
không? Trật “tủ” thì coi như đi đong. Nỗi buồn “ai đem vỏ chuối liệng sân nhà trường” chàng ta cứ ca cẩm mãi. Đó
là cảm tưởng chung của mấy chàng học hành lơ mơ với điệp khúc: “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín/Thi không
ngậm ớt thế mà cay (thơ Trần Tế Xương), và đành thực hiện phương châm: “Hỏng Tú Tài anh đi Trung sỹ/ Em ở nhà lấy
Mỹ nuôi con/ Bao giờ yên phận nước non/ Anh về anh có Mỹ con anh bồng”.
Không như ngày nay chỉ thi một số môn theo lịch thi
của Bộ Giáo Dục qui định từng năm. Thời
ấy, học môn gì thi môn đó. Có học thì có thi kể cả các môn thể dục, nghệ thuật
thi nhiệm ý (Thi đạt thì cọng thêm điểm, không thi thì thôi, không bắt buộc).
Có môn chính hệ số cao, môn phụ hệ số nhỏ. Tôi học ban B chỉ cần Toán, Lý, Hóa
chắc ăn là cầm chắc phần đỗ. Mấy nàng ban A “tụng” hết cuốn Vạn Vật gần nửa
ngàn trang sách thì thế nào cũng chứng được “Sa di”. Mấy cô cậu ban C thì đãng
đênh như triết nhân bất cần đời thế là đúng gu của “thí sinh cập đệ”. Cái buổi chiều
thi môn cuối cùng nhẹ tênh như mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xanh màu nước
sông Hương. Ai đó đạp xe vội qua cầu,
dựng một nơi nào đó rồi cùng nhau bát bộ mấy vòng trên phố. Ngang góc đường
Phan Bội Châu, đường Trần Hưng Đạo, hãy ghé mắt nhìn vào tiệm ảnh La Cảnh Lưu
xem mấy dung nhan ghi hình kỷ niệm; lên nữa, liếc mắt vào tiệm sách Tân Hoa
ngắm mấy cô con gái đẹp của ông chủ quán; lên ngang rạp chiếu phim Tân Tân, ghé
lại xem chương trình phim mới. Mùi cà phê rang của tiệm cà phê Phấn, cà phê Lạc
Sơn tỏa khắp phố như một chiêu níu chân người quay đến. Dừng lại, vào nhà sách
Ưng Hạ, giả bộ tìm vài cuốn sách để nhìn chị Ry bán hàng tươi cười, thoăn thoắt
bao sách, trao cho người mua. Đôi tay
nhỏ nhắn, xinh xinh… Nốt ruồi duyên…
Ngày treo bảng kẻ vui người buồn. Người đỗ nhận “chứng
chỉ tốt nghiệp tạm thời” do chủ tịch Hội đồng khảo thí ký cấp để chuẩn bị cho các kỳ thi tiếp theo
vào các trường ngành nghề. Người hỏng lui về lo “cày” tiếp mấy pho sách cho kỳ
hai. Lại cũng còn không khí mùa thi!...Chỉ đến khi nào dứt tiếng ve, phượng đã
nhường cành cho lá non và những trái xanh lủng lẳng, thì các sỹ tử cũng đã yên
bề bến đổ. Cánh cửa Đại học Văn khoa, Khoa học, Luật khoa rộng mở là điểm đến
cho các cô cậu Tú đôi không chen chân được vào các trường chuyên nghiệp để rồi
một hai năm làm kiếp sinh viên hờ trước khi bước tiếp vào ngành nghề hay vào
binh nghiệp.
Những ngày thi, không khí thành phố nhộn nhịp bao
nhiêu thì những ngày cuối hè thoáng đượm bao vẻ chia ly như những con tàu rời
bến. Người đi xa, kẻ vào nghề, người tạm biệt phố phường “xếp áo thư sinh vui bước đăng trình mười tám tròn trăng”, tạm biệt
bạn bè, chia tay tuổi học trò về nơi chốn mới. Ai cũng thấy mình lớn lên thì
cũng thấy được mình đã mất thời tuổi hoa
bướm. Tôi có người bạn thơ ấu cùng ở xóm quê. Sau ngày đình chiến 1954,
NĐĐ.(tên người bạn) mới ra lớp ở trường làng. Lên phố, Đ. học sau tôi mấy lớp.
Năm học Đệ Nhất, thành phố biến động, Đ. bị bắt vào nhà lao. Đ. tự học trong tù
và ngày thi có hai cai tù áp giải ra trường thi. Thế mà Đ. cũng đỗ tốt nghiệp
và tiếp tục…ở tù. Ngày “Tổng tiến công Mậu Thân”, từ nhà lao Đ. được thoát ly
ra rừng. Sau 1975 về lại thành phố, Đ. trở thành cán bộ. Gặp lại tôi, Đ. thường
kể lại những kỷ niệm về mái trường và mùa thi. Con người cách mạng của anh như
mềm hơn với những ký ức sân trường và mùa thi đi ra từ nhà tù. Hạnh phúc cho
ai có một thời hoa bướm đi mãi theo cuộc
đời để một lần nhớ lại, nở trên môi nụ cười tiếc nuối. Bạn ấy giờ đã thành
người tàn phế sau một cơn tai biến mạch máu não. Nhà anh gần trường cũ, thường
ngày anh vẫn ngồi xe lăn nhìn học sinh tung tăng đến lớp. Chắc anh cũng nghĩ
đến ngày xưa, trên con đường này, anh đã cất bước xiềng xích tiến vào trường
thi.
Tất cả đã xa rồi…
(Đã dăng Tập san HNYD 12 - 60
NĂM HÀM NGHI HUẾ
1955 - 2015 NXB. THANH NIÊN)
Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015
TIẾNG CHUÔNG CHÙA
Văn chung thinh.
Phiền não khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sinh
Tôi không nhớ bài kệ đó tôi đọc ở đâu, nhưng mỗi lần nghe
tiếng chuông chùa, những câu kệ hiện về và tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại. Tiếng
chuông làm nhẹ bớt phiền não, trí huệ sáng hơn và tâm hồn thêm chứng ngộ.
Tiếng chuông làm cho con người đi vào chánh niệm, thức tỉnh.
Giữa không gian mênh mông, tiếng chuông ngân nga ru vào hồn ta, gột bỏ những lo
toan, để lại những những dư âm thiền vị. Tiếng chuông như xua tan mọi phiền muộn, toan tính, đưa ta
về chốn hư không nào đó chỉ còn tiếng chuông và … tiếng chuông: tiếng chuông
mang tính thức chúng
Một ngôi chùa ở chốn thâm u, tiếng đại hồng chung hai kỳ
triêu mộ trở nên quen thuộc với đồng quê
Việt Nam. Đêm khuya về sáng, tiếng chuông thức tỉnh mọi người. Chiều tối trăng
lên, tiếng chuông lắng đọng hồn người. Tiếng chuông là cuộc sống, là hồn quê
gắn bó với bao buồn vui hạnh ngộ.
Vào thơ nhạc, người yêu thơ không ai không biết bài thơ dân
gian về Hà Nội với tiếng chuông chùa:
Gió đưa cành trúc
la đà
Tiếng chuông Trấn
Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Cảnh cành trúc gió đưa la đà bên gương nước Hồ Tây và thanh âm tiếng chuông, canh
gà, nhịp chày… một bức tranh Thăng Long-Hà Nội được vẽ lại vượt quá nét chấm
phá với những địa danh chùa Trấn Vũ,
huyện Thọ Xương, làng Yên Thái… Một Thăng Long-Hà Nội đẹp, trữ tình, gợi cảm.
Nếu có “ý tại ngôn ngoại” chăng thì
chỉ tìm trong cảnh “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”. Thế nhưng nghe
tiếng chuông chùa Trấn Vũ mà còn thấy “mịt mù khói tỏa” thì phải chăng tính thức chúng của tiếng chuông chùa
chỉ lẩn khuất? Tiếng chuông ở đây cũng chỉ là một âm thanh miêu tả bên cạnh
những chi tiết khác. Cảm nhận thiền vị
và mức lay động của tiếng chuông chùa dường như thiếu đi phần nào.
Ta hãy đọc bài thơ Ngự chế “Thiên Mụ chung thanh” của
vua Thiệu Trị:
Cao cương cổ sát
trấn tiền xuyên
Nguyệt tướng thường
viên, tự tại thiên
Bách bát hồng thanh
tiêu bách kết
Tam thiên thế giới
tĩnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật
u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu
đạo vị huyền
Phật tích, Thánh
công thùy hải vũ
Thiện nhân phúc quá
phổ cai diên
Bản dịch thơ cũa Vĩnh Cao:
Tiếng chuông Thiên
Mụ
Gò cao chùa cổ trấn
dòng trong
Như ánh trăng rằm
rạng cõi không
Trăm tám tiếng kình tiêu oán kết
Ba nghìn cõi tục
lắng tơ lòng
Trưa vang văng vẳng
u minh cảm
Sáng vọng ngân nga
đạo vị nồng
Dấu Phật công Thần
vang bốn bể
Nhân lành quả phúc
khắp non sông
(Nguồn: Tạp chí Liễu Quán số 2, tháng 5/2014)
Tiếng chuông làm tiêu oán kết, lắng tơ lòng, cảm đến cõi u
minh, ngân nga mùi thiền vị đạo. Tiếng chuông Thiên Mụ gia trì thức chúng làm vơi phiền não, khai mở trí
huệ, thức tỉnh tâm hồn.
Tiếng chuông chùa Từ Đàm-Huế, nơi uy nghiêm phát nguồn ánh
đạo vàng, nhẹ rung trong mùa pháp nạn, gợi hồn tổ tiên kiêu hùng muôn đời nâng
bước chân con dân thần kinh bảo vệ Chánh pháp:
Quê hương tôi miền
Trung
Sớm hôm chuông chùa
nhẹ rung
Tiếng muôn đời hồn
tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm bóng
chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát
nguồn đạo vàng
Qua bao giông tố
chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
(Trích Từ Đàm quê
hương tôi, nhạc Văn Giảng)
Giai điệu nhạc nhẹ nhàng, trầm hùng, sâu lắng như tiếng
chuông chiều ngân nga, lan tỏa đại hùng, đại lực Phật nơi quê hương thần kinh.
Dù ai xa mấy, tiếng chuông vẫn còn vang vọng cõi lòng.
Làng thơ Việt còn truyền nhau giai thoại về bài thơ “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế, một
thi nhân nổi tiếng đời Đường-Trung Hoa:
Nguyêt lạc ô đề
sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại
Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh
đáo khách thuyền.
Bản dịch thơ của Tản Đà:
Đỗ thuyền đêm ở bến
Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn,
sương rơi
Lửa chài, cây bãi
đối người nằm co
Con thuyền đậu bến
Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San
Giai thoại kể rằng: Trương Kế đậu thuyền ở bến Phong Kiều,
xúc cảnh đêm trăng bên ánh đèn ngư hỏa và hàng phong ven sông, trên không vẳng
lên tiếng quạ kêu sương vọng lại, ông ngâm hai câu thơ đầu rồi tắc tị kiếm mãi
không ra tứ thơ. Lúc ấy trên chùa Hàn Sơn, nhà sư xúc cảnh đêm trăng mông lung
huyền ảo, ngâm hai câu thơ rồi cũng tắc tị không kiếm ra tứ để ngâm tiếp. Một chú
tiểu xúc cảnh đêm trăng, không ngủ được, đến bên thầy và cùng thầy ngâm tiếp
hai câu thơ sau. Hai thầy trò hoàn thành bài thơ. Sư cụ cho gióng hồi chuông,
thành kính tạ ơn Trời Phật. Tiếng chuông vọng đến thuyền, Trương Kế khởi tứ thơ
ngâm tiếp hai câu thơ sau.
Bài thơ của sư cụ và chú tiếu như sau:
Sơ tam, sơ tứ
nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu,
bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ
phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để,
bán phù không.
Bản dịch thơ của Trần Trọng San:
Mồng ba, mồng bốn
trăng mờ
Nửa dường móc bạc, nửa
như cung trời
Một bình ngọc trắng
chia hai
Nửa chìm đáy nước,
nửa cài từng không.
(Nguồn: Thơ Đường,
Trần Trọng San)
Ra ngoài đời, quê tôi phía bắc cố đô, cách Huế không xa.
Thuở ấy chưa mọc lên những công trình xây dựng qui mô, bề thế, đêm đêm tiếng chuông
Thiên Mụ ngân vang, vượt màn sương ru hồn và thức tỉnh cậu bé quê. Tiếng chuông
ngân bên tiếng gà gáy sáng và đôi khi còn có tiếng đại bác ru đêm. Nghe tiếng chuông và lời niệm Quán Thế Âm của
bà tôi, mọi nỗi sợ như được xua tan. Âm thanh ấy theo mãi đời tôi. Đến bây giờ, tai tôi không còn rung
lên tiếng chuông nhưng trong hồn, tôi vẫn còn nghe vang vọng tiếng chuông khuya
và lời niệm của bà. Phật âm và Phật quang diệu kỳ còn ngân vang và chiếu sáng
hồn tôi. Đêm, một lần về quê, tôi không còn nghe rõ hồi chuông Thiên Mụ. Thay
vào, tiếng chuông chùa quê gần gũi, dung
dị giữa khuya là tiếng quê hương tỉnh thức tôi sau bao bước bôn ba kiếm sống. Sau lũy tre làng, hồn quê trở về
với tôi theo tiếng chuông, thứ mà tôi từ lâu tưởng như đã không còn. Tôi thấy
lại bóng Phật-đà diệu kỳ trên hương án và trong hồn mình.
Đảnh lễ Phật trong các khóa trì tụng, tôi nghe tiếng mõ giữ
nhịp đều đều, chen vào là những tiếng chuông tỉnh thức kéo tôi khỏi các vọng
niệm và định tâm theo tiếng kinh và tay lần tràng hạt của chư thầy. Thỉnh một
hồi chuông trước Phật đài, nén nhang tỏa hương đến ba ngàn thế giới Phật và
thấy Phật hiện về bên mình. Nhưng nơi tôi sống bây giờ, tiếng đại hồng chung
tôi cố lắng nghe mỗi khuya dường như không còn được chùa gióng lên nữa trong thành
phố này.
Ôi thiêng liêng và tiếc quá tiếng chuông chùa!
(Đã đăng
Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 227
Ngày 15/6/2015 Phật lịch 2559)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)