Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Đọc TÂM THÀNH LỄ BẠC



Đ ọc   TÂM THÀNH LỄ BẠC

Cầm tên tay tập bản thảo “TÂM THÀNH LỄ BẠC” tôi nghĩ ra ý định của tác giả NGUYỄN PHÚC VĨNH BA khi cho ra mắt những đứa con tinh thần của mình. Đọc vào lời nói đầu tôi càng kính trọng tác giả hơn về thái độ khiêm tốn, cầu thị nhưng đầy trách nhiệm với văn hóa, lịch sử nước nhà. Tập sách qui tụ những bài viết của tác giả đã từng công bố trên các tập san, tạp chí trong nước từ nhiều năm nay. Có người cho rằng những loại văn cổ này không còn phù hợp với  xã hội ngày nay. Nhiều người sử dụng loại văn này chỉ có tính cách mua vui hay vào các mục đích đả kích, châm biếm. Các tiểu phẩm hài trên báo viết hay trên các trang của cộng đồng mạng, ngoài việc tạo tiếng cười cho độc giả từ nội dung bài viết, các tác giả còn có dụng ý sử dụng thế loại văn cổ như là một thứ tiếng nói bông lơn. Đối với tác giả “TÂM THÀNH LỄ BẠC” thì khác. “Các thể thơ ca cổ điển này có một sức hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ”, đó là “những viên ngọc quí trong nền văn học nước nhà”  nên  “còn ngồi đục đẽo mấy bài thơ theo cái xưa” để “tiếp gót các tiền nhân”. Một cách ôn cố tri tân đáng khâm phục !


Tập sách tập hợp 16 bài viết theo dạng thể phú Nôm Đường luật gồm 1 bài cáo, 1 bài hịch. 2 văn bia, 8 văn tế, 3 bài phú và 1 điếu văn.. Các bài viết trang trọng, chỉnh tề đúng vần luật, đọc qua một lần nghe nhạc điệu biền ngẫu râm rang hùng tráng, đọc lại thấy tư tưởng phấn chấn rộn ràng như những hồi kèn xung trận. Thật là một dụng công hiếm có. Nhiều vấn đề được gợi lên cho người đọc nhưng nổi bật vẫn xoáy vào tình cảm thiêng thiêng của người Việt Nam với dân, với nước, thứ tình cảm cao quí muôn đời làm trường tồn quốc gia, giống nòi.


Tác giả đứng trên các sai biệt để nhìn nhận những sự kiện, những nhân vật lịch sử trong ý thức nhân bản, khai phóng. Những tranh cãi lịch sử dành lại cho thời gian thẩm định. Công, tội như gió thoảng qua. Bầu trời sẽ xanh trong khi lặng gió.


 Với một Cha cố Thiên Chúa giáo đến tự trời tây, suốt đời “Vâng ý Chúa, đội mát vành gai”“mến yêu sông núi , đất quê người…” thì cái cao đẹp nhân bản đã vượt trên mọi vô ngại sai biệt nhị nguyên:


“Người không Việt, xương chôn đất Việt, tình mênh mông ôm ấp cả nhân quần; Gốc từ Âu thân biệt trời Âu, nghĩa sâu đậm chói lòa bao khí tiết”


(Văn bia  Cố Cả Léopold M. Cadière)


Với Phạm Quỳnh, một nhân vật lịch sử có nhiều đánh giá khác nhau chưa ngã ngũ, thì đây là tấm phiếu của tác giả :


“Ý chí ấy, nhân cách ấy, đời trăm năm dễ có được ru!; Công lao này, sự nghiệp này, sách vạn chữ khó mà kể xiết!”


Và  thái độ của tác giả:


“Ngậm ngùi nhớ bậc hùng tài; Xót xa khóc người đã khuất”


(Văn tế Nam Phong chủ bút Phạm tiên sinh)


Trước cảnh  “thiên tai quá quắt” lại “cộng thêm nhân tai” ,“sơn tặc”, “thủy tặc”, ngòi bút tác giả không ngại ngùng vạch mặt:


“Thủy điện chen thủy lợi, qui hoạch rối bời; Lâm khấu phá lâm viên, tung hoành ngang dọc”


(Hịch cứu tế lương dân bị lũ lụt)


Sự kiện cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, nhiều cây viết còn ngại ngần, né tránh. Thế mà tác giả lại khẳng khái tuyên bố:


“Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi; Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi”


Người chiến sĩ Hoàng Sa được vẽ lên trong khung cảnh biển nước mênh mông với những hy sinh và ý chí sắt son thật đẹp và kiêu hùng:


“Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan; Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.”


Và tác giả đã thay lời nói hộ mấy mươi triệu con dân đất Việt về sự hy sinh anh dũng của các anh:


“Tổ quốc thề không quên; Toàn dân nguyền nhớ mãi”


(Văn tế 74 tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa)


Cái khó mà hay của thể phú Đường luật là chặt chẽ về bố cục, vần, đối. Cả bài phú chỉ một vần kết nối toàn bài văn. Những cặp câu tứ tự, bát tự, song quan, cách cú, gối hạc xen kẽ, đối nhau hoàn chỉnh trong một liên gồm 2 vế, có tiếng vần ở cuối vế sau, làm thành những cặp câu biền ngẫu kết dính thanh âm, đọc lên nghe hùng hồn, lôi cuốn. Cái ưu điểm này nếu tận dụng một cách máy móc, kẻ non tay dễ biến thành khuyết điểm. Bài nào cũng giọng điệu ấy mà không sáng tạo, lồng ghép đan xen dễ gây nhàm chán. Nhiều người cho bài “Văn tế tướng sĩ trận vong” viết theo lối phú Nôm Đường luật của Nguyễn Văn Thành  là “một áng văn chương tuyệt bút…”, “lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời…” (Phạm Quỳnh), (trích lại của Dương Quảng Hàm và Lê Đình Sử); “…đạt đến mức độ tối cao của nghề phú”, “tựu trung, câu gối hạc vẫn chiếm đa số vì ấy là loại câu tả rõ được cái nhạc điệu phức tạp của sự vật, cái lẩn lút của tâm linh” (Phạm Văn Diêu – Văn học Việt Nam, Tân Việt Sài Gòn xuất bản 1960, trang 741). Ở trong bài phú đó cái công thức bố cục, ngôn từ; các kiểu câu, kết liên; sự đa dạng đến khó phân biệt rạch ròi song quan, cách cú, gối hạc… trong mỗi liên; đặc biệt là nhiều câu dài nghe nhẹ nhàng, uyển chuyển làm dịu đi những âm thanh khô khốc của các liên tứ tự, song quan.


Đọc “TÂM THÀNH LỄ BẠC” của NGUYỄN PHÚC VĨNH BA, cái hào sảng đong đầy từng câu chữ khơi dậy hào khí dân tộc qua những thăng trầm lịch sử; cái thiết tha, sâu lắng ẩn hiện trong từng  góc nhìn gợi bao niềm xúc cảm từ tình yêu sông núi thiêng liêng đến những quan hệ đời thường gắn bó. Một tập sách như thế  xuất hiện trong giai đoạn “cái học nhà nho đã hỏng rồi” từ đã hơn trăm năm nay quả là một việc làm gần như “đội đá vá trời” cần được nhìn nhận như một cống hiến đáng trân trọng, cổ xúy.



Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

MÙA THI



Mỗi lần nhìn hoa phượng nhuộm đỏ nắng hè thì bất chợt trong tôi hiện lại ký ức mùa thi với tiếng ve râm rang trên các vòm xanh theo các con đường Thành Nội, trong vườn nhà, trong sân trường thưa  vắng bước chân học trò. Trường chưa vào nghỉ hè mà các lớp cuối cấp cứ thưa dần học sinh. Các sỹ tử vùi đầu vào trang sách, ngày đêm lẩm nhẩm như đọc kinh nhật tụng. Bàn học về khuya còn chong đèn. Cái đồng hồ bàn hiệu con gà để chậm 2, 3 giờ cứ tích tắc “đánh lừa” thị giác. Các cột điện đường trên cầu Đông Ba, cầu Gia Hội, cầu Trường Tiền trở thành nơi tụ hội về khuya của các “nhóm văn nhân” học hành lăng nhăng. Mấy o bán chè khuya về, chưa hết gánh tạt ngang mời mọc và ghé lại vui vẻ bán hàng, đôi khi chẳng cần tiền trả. Tất cả hẹn lại về sau!... Mọi sở thích, vui chơi đều gác lại. Đến tập tiểu tuyết, tạp chí ưa thích cũng chỉ nhìn qua trang bìa rồi gấp lại thật nhanh. Và câu thơ chợt đến thì…Thôi ! Cứ ngâm nga như Xuân Diệu; “…Mùa thi đã đến em thơ/ Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau” cho xong môt bần thần tiếc nuối.
Thành phố của tôi có vẻ như chậm lại mọi hoạt động trong mùa thi. Phố chiều ít người dạo phố. Cái thú “đi nghễ” của nam thanh nữ tú kinh kỳ vơi bớt cường độ. Mọi nhà dù có con cháu đi thi hay không cũng như cùng đều chia sẻ niềm háo hức khoa cử. Đại Nội im vắng là nơi ôn tập lý tưởng nhưng tuyệt nhiên không có bóng hồng. Các nàng “sợ ma” hổng dám! Mấy cậu thì cũng phải năm ba chàng mới dám vào chiếm lĩnh các gốc cổ thụ để cầm sách đi quanh, lẩm nhẩm như phù thủy đọc phù chú yểm bùa.
Thời tôi đi thi đã không còn lều chõng mà tôi cứ nhớ mãi câu thơ của Trần Tế Xương: “Tấp tểnh người đi tớ cũng đi/ Cũng lều cũng chõng cũng đi thi…”. Và tôi cứ nghêu ngao câu đó đến ngày cùng bè bạn chen chúc tại trường thi dò số ký danh, phòng thi với nhiều hồi hộp, vui buồn.
Vào trường thi, hạnh phúc cho cô cậu nào được thi tại ngôi trường mình học. Mà cũng vui khi được ngồi cùng bàn với cả những nữ sinh. Kiểu này mà bí bài không đáp ứng những ánh mắt e thẹn cầu cứu của nương nương thì có nước độn thổ cho xong. Cũng thật buồn khi phải ngồi cạnh mấy ông thí sinh tự do là lính tráng đi thi, không khéo cho mấy đấng quây cóp thì bị phá hỏng mất bài không chừng. Một mớ kiến thức ngập tràn trong mấy bộ sách giáo khoa lọc lại chỉ trong từng mấy câu hỏi, bài tập kiểm tra. “Tủ” kê có đúng chỗ không? Trật “tủ” thì coi như đi đong. Nỗi buồn “ai đem vỏ chuối liệng sân nhà trường” chàng ta cứ ca cẩm mãi. Đó là cảm tưởng chung của mấy chàng học hành lơ mơ với điệp khúc: “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín/Thi không ngậm ớt thế mà cay (thơ Trần Tế Xương), và đành thực hiện phương châm: “Hỏng Tú Tài anh đi Trung sỹ/ Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con/ Bao giờ yên phận nước non/ Anh về anh có Mỹ con anh bồng”.
Không như ngày nay chỉ thi một số môn theo lịch thi của Bộ  Giáo Dục qui định từng năm. Thời ấy, học môn gì thi môn đó. Có học thì có thi kể cả các môn thể dục, nghệ thuật thi nhiệm ý (Thi đạt thì cọng thêm điểm, không thi thì thôi, không bắt buộc). Có môn chính hệ số cao, môn phụ hệ số nhỏ. Tôi học ban B chỉ cần Toán, Lý, Hóa chắc ăn là cầm chắc phần đỗ. Mấy nàng ban A “tụng” hết cuốn Vạn Vật gần nửa ngàn trang sách thì thế nào cũng chứng được “Sa di”. Mấy cô cậu ban C thì đãng đênh như triết nhân bất cần đời thế là đúng gu của “thí sinh cập đệ”. Cái buổi chiều thi môn cuối cùng nhẹ tênh như mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xanh màu nước sông Hương. Ai đó đạp xe vội qua  cầu, dựng một nơi nào đó rồi cùng nhau bát bộ mấy vòng trên phố. Ngang góc đường Phan Bội Châu, đường Trần Hưng Đạo, hãy ghé mắt nhìn vào tiệm ảnh La Cảnh Lưu xem mấy dung nhan ghi hình kỷ niệm; lên nữa, liếc mắt vào tiệm sách Tân Hoa ngắm mấy cô con gái đẹp của ông chủ quán; lên ngang rạp chiếu phim Tân Tân, ghé lại xem chương trình phim mới. Mùi cà phê rang của tiệm cà phê Phấn, cà phê Lạc Sơn tỏa khắp phố như một chiêu níu chân người quay đến. Dừng lại, vào nhà sách Ưng Hạ, giả bộ tìm vài cuốn sách để nhìn chị Ry bán hàng tươi cười, thoăn thoắt bao sách,  trao cho người mua. Đôi tay nhỏ nhắn, xinh xinh… Nốt ruồi duyên…
Ngày treo bảng kẻ vui người buồn. Người đỗ nhận “chứng chỉ tốt nghiệp tạm thời” do chủ tịch Hội đồng khảo thí  ký cấp để chuẩn bị cho các kỳ thi tiếp theo vào các trường ngành nghề. Người hỏng lui về lo “cày” tiếp mấy pho sách cho kỳ hai. Lại cũng còn không khí mùa thi!...Chỉ đến khi nào dứt tiếng ve, phượng đã nhường cành cho lá non và những trái xanh lủng lẳng, thì các sỹ tử cũng đã yên bề bến đổ. Cánh cửa Đại học Văn khoa, Khoa học, Luật khoa rộng mở là điểm đến cho các cô cậu Tú đôi không chen chân được vào các trường chuyên nghiệp để rồi một hai năm làm kiếp sinh viên hờ trước khi bước tiếp vào ngành nghề hay vào binh nghiệp.
Những ngày thi, không khí thành phố nhộn nhịp bao nhiêu thì những ngày cuối hè thoáng đượm bao vẻ chia ly như những con tàu rời bến. Người đi xa, kẻ vào nghề, người tạm biệt phố phường “xếp áo thư sinh vui bước đăng trình mười tám tròn trăng”, tạm biệt bạn bè, chia tay tuổi học trò về nơi chốn mới. Ai cũng thấy mình lớn lên thì cũng thấy được mình  đã mất thời tuổi hoa bướm. Tôi có người bạn thơ ấu cùng ở xóm quê. Sau ngày đình chiến 1954, NĐĐ.(tên người bạn) mới ra lớp ở trường làng. Lên phố, Đ. học sau tôi mấy lớp. Năm học Đệ Nhất, thành phố biến động, Đ. bị bắt vào nhà lao. Đ. tự học trong tù và ngày thi có hai cai tù áp giải ra trường thi. Thế mà Đ. cũng đỗ tốt nghiệp và tiếp tục…ở tù. Ngày “Tổng tiến công Mậu Thân”, từ nhà lao Đ. được thoát ly ra rừng. Sau 1975 về lại thành phố, Đ. trở thành cán bộ. Gặp lại tôi, Đ. thường kể lại những kỷ niệm về mái trường và mùa thi. Con người cách mạng của anh như mềm hơn với những ký ức sân trường và mùa thi đi ra từ nhà tù. Hạnh phúc cho ai  có một thời hoa bướm đi mãi theo cuộc đời để một lần nhớ lại, nở trên môi nụ cười tiếc nuối. Bạn ấy giờ đã thành người tàn phế sau một cơn tai biến mạch máu não. Nhà anh gần trường cũ, thường ngày anh vẫn ngồi xe lăn nhìn học sinh tung tăng đến lớp. Chắc anh cũng nghĩ đến ngày xưa, trên con đường này, anh đã cất bước xiềng xích tiến vào trường thi.
Tất cả đã xa rồi…
 (Đã dăng Tập san HNYD 12  -  60 NĂM HÀM NGHI HUẾ
1955 - 2015  NXB. THANH NIÊN)

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015



TIẾNG CHUÔNG CHÙA

Văn chung thinh.
Phiền não khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sinh

Tôi không nhớ bài kệ đó tôi đọc ở đâu, nhưng mỗi lần nghe tiếng chuông chùa, những câu kệ hiện về và tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại. Tiếng chuông làm nhẹ bớt phiền não, trí huệ sáng hơn và tâm hồn thêm chứng ngộ.
Tiếng chuông làm cho con người đi vào chánh niệm, thức tỉnh. Giữa không gian mênh mông, tiếng chuông ngân nga ru vào hồn ta, gột bỏ những lo toan, để lại những những dư âm thiền vị. Tiếng chuông  như xua tan mọi phiền muộn, toan tính, đưa ta về chốn hư không nào đó chỉ còn tiếng chuông và … tiếng chuông: tiếng chuông mang tính thức chúng
Một ngôi chùa ở chốn thâm u, tiếng đại hồng chung hai kỳ triêu mộ  trở nên quen thuộc với đồng quê Việt Nam. Đêm khuya về sáng, tiếng chuông thức tỉnh mọi người. Chiều tối trăng lên, tiếng chuông lắng đọng hồn người. Tiếng chuông là cuộc sống, là hồn quê gắn bó với bao buồn vui hạnh ngộ.

Vào thơ nhạc, người yêu thơ không ai không biết bài thơ dân gian về Hà Nội với tiếng chuông chùa:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Cảnh cành trúc gió đưa la đà bên gương  nước Hồ Tây và thanh âm tiếng chuông, canh gà, nhịp chày… một bức tranh Thăng Long-Hà Nội được vẽ lại vượt quá nét chấm phá với những địa danh chùa Trấn  Vũ, huyện Thọ Xương, làng Yên Thái… Một Thăng Long-Hà Nội đẹp, trữ tình, gợi cảm. Nếu có “ý tại ngôn ngoại” chăng thì chỉ tìm trong cảnh “Mịt  mù khói tỏa ngàn sương”. Thế nhưng nghe tiếng chuông chùa Trấn Vũ mà còn thấy “mịt mù khói tỏa” thì phải chăng tính thức chúng của tiếng chuông chùa chỉ lẩn khuất? Tiếng chuông ở đây cũng chỉ là một âm thanh miêu tả bên cạnh những chi tiết khác. Cảm nhận thiền vị  và mức lay động của tiếng chuông chùa dường như thiếu đi phần nào.

Ta hãy đọc bài thơ Ngự chế “Thiên Mụ chung thanh” của  vua Thiệu Trị:
Cao cương cổ sát trấn tiền xuyên
Nguyệt tướng thường viên, tự tại thiên
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tĩnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
Phật tích, Thánh công thùy hải vũ
Thiện nhân phúc quá phổ cai diên

Bản dịch thơ cũa Vĩnh Cao:
Tiếng chuông Thiên Mụ
Gò cao chùa cổ trấn dòng trong
Như ánh trăng rằm rạng cõi không
Trăm tám tiếng  kình tiêu oán kết
Ba nghìn cõi tục lắng tơ lòng
Trưa vang văng vẳng u minh cảm
Sáng vọng ngân nga đạo vị nồng
Dấu Phật công Thần vang bốn bể
Nhân lành quả phúc khắp non sông
(Nguồn: Tạp chí Liễu Quán số 2, tháng 5/2014)
Tiếng chuông làm tiêu oán kết, lắng tơ lòng, cảm đến cõi u minh, ngân nga mùi thiền vị đạo. Tiếng chuông Thiên Mụ gia trì  thức chúng làm vơi phiền não, khai mở trí huệ, thức tỉnh tâm hồn.

Tiếng chuông chùa Từ Đàm-Huế, nơi uy nghiêm phát nguồn ánh đạo vàng, nhẹ rung trong mùa pháp nạn, gợi hồn tổ tiên kiêu hùng muôn đời nâng bước chân con dân thần kinh bảo vệ Chánh pháp:
Quê hương tôi miền Trung
Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung
Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát nguồn đạo vàng
Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
(Trích Từ Đàm quê hương tôi, nhạc Văn Giảng)
Giai điệu nhạc nhẹ nhàng, trầm hùng, sâu lắng như tiếng chuông chiều ngân nga, lan tỏa đại hùng, đại lực Phật nơi quê hương thần kinh. Dù ai xa mấy, tiếng chuông vẫn còn vang vọng cõi lòng.

Làng thơ Việt còn truyền nhau giai thoại về bài thơ “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế, một thi nhân nổi tiếng đời Đường-Trung  Hoa:
Nguyêt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Bản dịch thơ của Tản Đà:
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Giai thoại kể rằng: Trương Kế đậu thuyền ở bến Phong Kiều, xúc cảnh đêm trăng bên ánh đèn ngư hỏa và hàng phong ven sông, trên không vẳng lên tiếng quạ kêu sương vọng lại, ông ngâm hai câu thơ đầu rồi tắc tị kiếm mãi không ra tứ thơ. Lúc ấy trên chùa Hàn Sơn, nhà sư xúc cảnh đêm trăng mông lung huyền ảo, ngâm hai câu thơ rồi cũng tắc tị không kiếm ra tứ để ngâm tiếp. Một chú tiểu xúc cảnh đêm trăng, không ngủ được, đến bên thầy và cùng thầy ngâm tiếp hai câu thơ sau. Hai thầy trò hoàn thành bài thơ. Sư cụ cho gióng hồi chuông, thành kính tạ ơn Trời Phật. Tiếng chuông vọng đến thuyền, Trương Kế khởi tứ thơ ngâm tiếp hai câu thơ sau.

Bài thơ của sư cụ và chú tiếu như sau:
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu, bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để, bán phù không.

Bản dịch thơ của Trần Trọng San:
Mồng ba, mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc, nửa như cung trời
Một bình ngọc trắng chia hai
Nửa chìm đáy nước, nửa cài từng không.
(Nguồn: Thơ Đường, Trần Trọng San)

Ra ngoài đời, quê tôi phía bắc cố đô, cách Huế không xa. Thuở ấy chưa mọc lên những công trình xây dựng qui mô, bề thế, đêm đêm tiếng chuông Thiên Mụ ngân vang, vượt màn sương ru hồn và thức tỉnh cậu bé quê. Tiếng chuông ngân bên tiếng gà gáy sáng và đôi khi còn có tiếng đại bác ru đêm.  Nghe tiếng chuông và lời niệm Quán Thế Âm của bà tôi, mọi nỗi sợ như được xua tan. Âm thanh ấy theo mãi  đời tôi. Đến bây giờ, tai tôi không còn rung lên tiếng chuông nhưng trong hồn, tôi vẫn còn nghe vang vọng tiếng chuông khuya và lời niệm của bà. Phật âm và Phật quang diệu kỳ còn ngân vang và chiếu sáng hồn tôi. Đêm, một lần về quê, tôi không còn nghe rõ hồi chuông Thiên Mụ. Thay vào, tiếng chuông chùa quê  gần gũi, dung dị giữa khuya là tiếng quê hương tỉnh thức tôi sau bao bước bôn ba  kiếm sống. Sau lũy tre làng, hồn quê trở về với tôi theo tiếng chuông, thứ mà tôi từ lâu tưởng như đã không còn. Tôi thấy lại bóng Phật-đà diệu kỳ trên hương án và trong hồn mình.
Đảnh lễ Phật trong các khóa trì tụng, tôi nghe tiếng mõ giữ nhịp đều đều, chen vào là những tiếng chuông tỉnh thức kéo tôi khỏi các vọng niệm và định tâm theo tiếng kinh và tay lần tràng hạt của chư thầy. Thỉnh một hồi chuông trước Phật đài, nén nhang tỏa hương đến ba ngàn thế giới Phật và thấy Phật hiện về bên mình. Nhưng nơi tôi sống bây giờ, tiếng đại hồng chung tôi cố lắng nghe mỗi khuya dường như không còn được chùa gióng lên nữa trong thành phố này.
Ôi thiêng liêng và tiếc quá tiếng chuông chùa!
(Đã đăng Tạp chí Văn Hóa Phật  Giáo số 227
           Ngày 15/6/2015  Phật lịch 2559)

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

CÓ MỘT NGÔI TRƯỜNG NHƯ THẾ



                                            (Nhớ về trường Hàm Nghi - Huế)

Ngôi trường điềm đạm giữa ô đất rộng rợp bóng cây xanh, tọa lạc giữa bốn con đường vuông vắn bàn cờ. Tường thành bao quanh, cổ kính rêu mốc màu thời gian, ngăn chia sự tĩnh lặng êm đềm giữa trong ngoài và bốn con đường bao quanh, một sự tĩnh lặng đặc trưng của vùng hoàng thành đế kinh những ngày không còn vua chúa. Bốn cột trụ biểu trước cổng, nhà giảng sách, nhà cư xá giám sinh, bia và những pho tượng đá gợi nhớ một quá khứ xa xưa nào đó, một quá khứ văn hiến với những buổi giảng sách, bình văn. Có cậu giám sinh nào đó nhiều mơ mộng, thả hồn nương cánh bướm chờn vờn theo những chùm hoa mù u trắng trên cao, trong tiết bình thơ đầu xuân lất phất bụi phùn.

Ngôi trường ấy khi tôi học đã có sự đổi thay. Trường không còn các giám sinh, các quan tế tửu, quan tư nghiệp. Chúng tôi, học sinh và các thầy cô giáo, người học và người dạy, thụ hưởng một nền giáo dục mới trong tinh thần tôn sư trọng đạo của chốn thư hương truyền thống. Bây giờ một số thầy đã trở về hư vô, học sinh phần lớn tóc đã bạc trắng. Người còn lại cùng chung một hoài niệm về ngôi trường có nhiều thăng trầm, yểu mệnh.
Nếu Quốc Tử Giám từ Văn Thánh chuyển về năm 1907, đến khi bãi bỏ nền giáo dục Hán học, trường đóng cửa, và thời gian thành lập trường Trung học Hàm Nghi đến khi bị giải thể (1955-1975), thời gian hoạt động giáo dục triển khai tại ngôi trường này chỉ trên dưới 30 năm. Chung cục, cả hai trường đều “bất đắc kỳ tử”.Thế mà với ngôi trường ấy tôi vẫn luôn nhớ về bằng những tình cảm thân thương trìu mến nhất.

Trường tôi học thời ấy có những ông thầy kỳ lạ. Một thầy dạy Pháp văn năm Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) với cách luyện phát âm có một không hai. Học sinh nào cũng bị rơi vào bẫy của thầy khi phát âm “u” trong alphabet tiếng Pháp thành “ou” để bị thầy gõ đầu chọc quê, mua vui cho cả lớp. Mỗi khi ngồi giảng bài thầy hay rung đùi. Một lần, mấy đứa học sinh ngồi bàn đầu cười khúc khích mãi. Thầy gặng hỏi mới biết baguette quần thầy quên cài nút. Thầy nghiêm nghị gọi cả bàn đứng dậy, nói rất nghiêm: “Thầy mở cửa sổ cho mát, cấm nhìn! Chép phạt 100 câu. Mai nộp !”. Rồi thầy cười òa, cả lớp cũng cười òa… Giờ học của thầy rất nghiêm, học sinh không bao giờ có tiếng xì xào. Bỗng một tiếng không đẹp lắm, phát ra rất du dương, bổng trầm, nhịp nhàng như tiếng kèn trompette kéo dài của cậu học sinh nào bụng xấu, chắc sáng nay ăn thứ gì chưa kịp tiêu hóa hết, ấm ức bất bình tắc minh*. Cả lớp ồ lên cười ngặt nghẽo. Thầy đợi một lúc rồi gọi tác giả của cái âm thanh kỳ diệu đó đứng lên. “Tôi không được làm sém ghế nhà trường. Chép phạt 100 câu. Mai nộp!”. Cả lớp lại có một tràng cười khác… Bây giờ thầy không còn nữa. Thầy đã vĩnh viễn ra đi trong một biến cố chiến sự. Những cách ứng xử có vẻ thiếu sư phạm trong hành động nhưng lại rất sư phạm trong việc giải quyết tình huống giáo dục cởi mở, để đời cho học sinh nhớ và thương thầy.

Lớp Đệ Thất năm ấy của tôi còn có một thầy trẻ dạy Văn làm giáo sư hướng dẫn, sáng sáng thầy điểm danh thuộc lòng tên học sinh từ các bạn chữ A đầu tiên đến tên chữ Y cuối cùng, làm học sinh cả lớp cũng thuộc theo. Thầy dạy Hội Họa nói đặc tiếng Quảng “Dzẽa dzẽa gì như con chó bò!”, với yêu cầu ngày nào cũng khám que ngắm của học sinh. Một lần thầy ngồi trên bàn chấm bài, những học sinh đã vẽ xong sớm, mấy cậu xếp hạng thứ ba sau ma quĩ này chui xuống bàn, dám đụng đến “cái của quí ấy” của thầy. Dữ dằn và bốp chát như thầy, chúng cũng không tha. Thế là học sinh cả lớp bị phạt phải đứng im tại chỗ, cười không dám ra hơi để nghe thầy nói một thôi tiếng Quảng.

Năm tôi học Đệ Lục trường tôi có nhiều giáo sư còn trẻ mới ra trường, chuyển về dạy. Lớp tôi có một cô giáo dạy Toán và một thầy giáo dạy Vẽ. Cả đôi xinh như Roméo và Juliette. Sự đời có ngược ngạo thế mà hay. Môn Toán khô khan, trừu tượng phần lớn là ưu thế của phái nam. Môn nghệ thuật tinh tế, nhẹ nhàng phù hợp nhất cho phái nữ. Sở dĩ tôi có suy nghĩ đó lúc bấy giờ là vì cả cô dạy Toán lẫn thầy dạy Vẽ đều còn rất trẻ, rất đẹp và chúng tôi hay ao ước nếu thành một đôi thì đẹp biết bao, cho dù chúng tôi chưa biết gì về tình trạng gia cảnh của thầy cô. Cô dạy Toán có khuôn mặt, dáng điệu và cái nhìn ngước lên rất mignonne.Thầy dạy Vẽ thì hay rụt rè, có phần nhút nhát, nụ cười bẽn lẽn như con gái. Bản thân tôi ngưỡng mộ thầy cô đến độ Toán học không vô, Vẽ thì không bao giờ hoàn thành được bài tập đạt yêu cầu về thời gian và điểm số. Phòng học lớp tôi có nhiều cái cột gỗ, cách dãy phòng lớp Đệ Tứ một cái hiên nhà ngang, có mái che và một nhà để xe cho thầy cô giáo. Những khi cô thầy chuyển tiết, kẻ ra người vào gặp nhau ở hiên hay nhà xe, thì chúng tôi có cơ hội ngắm thần tượng qua khung cửa sổ lớp học. Thầy cười tươi nhưng mặt cứ đỏ lên. Cô thì vẫn liến thoắng, tự tin. Tà áo dài trắng của cô và vạt chemise trắng của thầy sáng lên dưới nắng chiều, bừng cả một góc trường. Mà tôi cũng thường để ý cả thầy dạy Vẽ và cô dạy Toán đều thích trang phục màu trắng hoặc vàng nhạt trẻ trung, lịch sự. Nói ra có vẻ phạm thượng và vô lễ, mong thầy và cô có đọc những dòng này tha thứ cho. Đây là những suy nghĩ và tình cảm thánh thiện đầu đời của tuổi mới lớn về thần tượng của mình.

Năm học Đệ Ngũ, lớp tôi lại có một thầy người Quảng dạy Văn. Thầy nhỏ thó nhưng tính cách cũng rất Quảng. Đệ Ngũ là lớp học chạy, nghĩa là không có một phòng học cố định như các khối lớp khác. Hôm ấy, tiết Văn có thanh tra về dự, lớp tôi được học trong phòng thứ hai dãy Đệ Thất. Học sinh cảm thấy nhột gáy vì nghĩ đến ở dãy bàn cuối, gần mười ánh mắt các quan thanh tra săm soi. Cả lớp im thin thít, chăm chú nhìn thẳng lên bảng đen. Không khí nặng nề. Đến phần giải nghĩa các từ trong bài giảng văn nghị luận, thầy phát vấn “tao đàn” nghĩa là gì? “bi quan” nghĩa là gì? Thường ngày thì cả lớp nhao nhao giơ tay xin phát biểu, nhưng bữa đó không ai dám. Kẹt quá, thầy mới gỡ bí: “Dễ thôi, chắc các em đều đã biết! “Tao đàn” là “tau đờn”. “Bi quan” là viên bi của ông quan… mà không phải quan thanh tra”. Cả lớp cười ồ theo thầy. Không khí lớp học trở lại tự nhiên. Thầy trò tiếp tục tiết học bình thường như các buổi không có thanh tra dự giờ.
Có một thầy dạy lớp tôi năm Đệ Lục môn Lý Hóa nhưng đến Đệ Tứ thì dạy Sử Địa. Môn gì thầy dạy cũng hay. Nhờ thầy, tôi từ một học sinh chán học trở thành giỏi Lý Hóa năm Đệ Lục và say mê Sử Địa cho đến bây giờ. Sau này vào đời, khi trở thành người quản lý giáo dục, trong đợt rà soát bằng cấp để chuyển những giáo viên dạy chéo môn về lại môn được đào tạo, tôi thường phân vân và bị phê bình thiếu dứt khoát. Có tình trạng này, một phần vì do nghiệm lại thành công của thầy tôi xưa kia.
Có một thầy dạy Vạn Vật năm Đệ Tứ tôi không thể nào quên. Thầy là tác giả bộ sách Vạn Vật từ lớp Đệ Thất đến Đệ Tứ. Thầy đến trường bằng ô tô, luôn luôn veston complé. Tiết dạy của thầy thì khỏi phải chê. Vẽ đẹp, nói hay, lưu loát, dẫn dắt bài giảng tuần tự theo từng nét vẽ trên bảng đen và học sinh vẽ theo vào vở. Kiến thức cô đọng, tinh chắc, rõ ràng, học đến đâu, luyện tập thực hành đến đó vì vậy học sinh nhớ cả kiến thức và tranh vẽ minh họa, thuộc bài ngay tại lớp kể cả những bài rất khó nhớ như bài hệ thần kinh. Chỉ là học sinh Đệ Tứ mà chúng tôi đã có kỹ năng thực hành mổ chuột, mổ ếch, mổ cá thành thạo. Dạy như thế mà hầu như là tiết nào thầy cũng có thời gian dành năm bảy phút cuối, kể chuyện cho chúng tôi nghe. Thầy kể chuyện cũng tuyệt vời như giảng bài. Có những chuyện thầy kể nhiều lần theo yêu cầu của học sinh, thế mà nghe vẫn thấy gay cấn, hấp dẫn như mới nghe lần đầu tiên. Đến bây giờ tôi vẫn còn nghe rờn rợn tiếng dép lẹt xẹt, kéo lê bàn chân tàn phế của của một cựu tù binh người Mỹ, duy nhất sống sót trong một lần cùng đồng đội vượt ngục, thoát khỏi trại giam của quân đội Nhật, sau trận thua ở Trân Châu cảng. Mấy năm sau khi chiến tranh kết thúc, một đêm, ông tìm đến đồng đội cũ để hỏi tội người mà ông ta cho là đã phản bội, làm tất cả bạn vượt ngục của ông phải bỏ mạng trước họng súng truy quét của kẻ thù. Tiếng dép lẹt xẹt… lẹt xẹt… khô khốc cứ tiến dần… tiến dần… đến ngôi nhà người phản bội trong một đêm kinh hoàng… Thầy có một thói quen là giảng bài một hồi thì đưa tay trái lên miệng, dùng ngón trỏ và ngón cái chùi vết dãi đọng trắng hai khóe môi. Thầy vui nhưng ít khi cười vì thế học sinh thương thầy mà ít gần.
Có một thầy dạy Toán có trí nhớ tuyệt vời. Sau kỳ thi lục cá nguyệt, bài thi chưa đến tiết trả, gặp thầy ngoài sân, học sinh bu lại hỏi điểm. Thầy trả lời điểm từng học sinh mà không cần hỏi tên từng em, vì thầy không những nhớ điểm mà nhớ cả tên từng học sinh. Một thầy dạy Văn làm giáo sư hướng dẫn lớp Đệ Tứ để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Thầy có nhiều cách khai thác một tiết học nên học sinh không có nếp rập khuôn khi thâm nhập một bài văn. Đây cũng là phương pháp tạo cảm giác mới mẻ trong từng tiết học. Có những tiết thầy chỉ ngồi đọc cho học sinh chép những bài giảng bình tác phẩm và thầy bảo học sinh có thể vận dụng cấu trúc này để viết những bài luận văn hay các tiểu phẩm phân tích, giảng bình thơ văn. Tôi rất thích những bài này và đọc đi đọc lại nhiều lần. Sau này trở thành một giáo viên dạy Văn, tôi thường vận dụng cách phân tích này. Học sinh tiếp thu dễ dàng và rất thích thú.
Trường tôi học là một trường mới được thành lập để đáp ứng nhu cầu ra lớp của học sinh tăng mạnh sau khi chiến tranh kết thúc. Đến tôi là khóa thứ ba (hoặc 4 ?) tuyển vào 225 học sinh phân thành 5 lớp Đệ Thất. Lớp tôi là lớp thứ tư thường bị chọc quê là “thất bê bối” (7B4). Phòng học là dãy cư xá 9 phòng của giám sinh xưa, cứ 2 phòng gần nhau thì đập bỏ vách ngăn giữa để ghép thành 4 phòng học, còn dư một phòng nhỏ sau lớp tôi. Phòng học vì thế có 2 cửa vào, cửa trên là cửa chính, cửa dưới, ngang hông dãy bàn học sinh để cho những học sinh hay mơ mộng, lơ đảng như tôi nhìn trời mây, chim chóc, cây cối ngoài sân. Hành lang trước lớp rộng, lại thiết kế cửa vòm nên bên trong lớp thường thiếu ánh sáng. Học sinh sau chiến tranh thì nhiều độ tuổi. Những học sinh gốc gác thành phố chỉ cỡ 11-12 tuổi, nhưng những cu cậu ở nông thôn đã đến 18-19, phải làm mới “chứng chỉ thế vì khai sinh” hạ tuổi để đủ điều kiện vào trường. Thầy dạy thì không đồng bộ, có thầy đã đến tuổi nghỉ hưu, có thầy là quân đội xuất ngũ, có thầy chính ngạch cũng có thầy thỉnh giảng và chắc ngày đó, nếu có một ông bộ trưởng giáo dục như hôm nay, yêu cầu kiểm tra bằng cấp và trình độ đào tạo thì khối thầy phải về vườn. Thế mà ai dám bảo ngôi trường đó không chất lượng bằng những ngôi trường chuẩn, với đội ngũ giáo viên bằng cấp đầy mình như hôm nay. Thế mới biết giá trị thực không phải và cũng chẳng cần tâng bốc, đề cao. Người ta tâng bốc, đề cao chỉ để lấp liếm thực chất còn bất cập của mình.
Trường đó còn nhiều thầy cô trở thành gương sáng tôi mãi noi theo trong suốt quá trình tôi là một thầy giáo. Dấu ấn của ngôi trường và các thầy lên cuộc đời tôi thật sâu đậm. Tôi đã trải qua nhiều trường lớp trong đời sống học đường nhưng nhớ nhiều nhất là ngôi trường Hàm Nghi cổ kính. Có lẽ thời gian theo học ở trường là giai đoạn để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất về đời học trò.

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

CÁCH SỬ DỤNG MỘT SỐ TÍNH NĂNG CỦA BLOGSPOT (st)







1/. VÀO BLOG :
_ Vào trang Google, gõ tìm đường link dẫn và blog của mình hay bạn bè. 
Ví dụ: butsref2013.blogspot.com
_  Nhấp vào tên blog vừa hiện ra. Ví dụ: BUTSREF'S BLOG
_ Nhấp vào từ Đăng nhập, điền Email và mật khẩu của mình vào ô cửa sổ hiện ra để chính thức vào nhà, mới có thể đăng bài mới, tải ảnh, tải nhạc, trả lời nhận xét của bạn bè...
2/.  ĐĂNG BÀI MỚI :
_  Nhấp vào từ Đăng bài mới nằm góc phải màn hình, cạnh từ  Thiết kế .
_  Khung chữ nhật to hiện ra, hoặc viết trực tiếp bài vào đó hoặc copy bài có sẵn từ một File nào đó mang sang dán vào. Sau đó chỉnh sửa phông chữ, cỡ chữ, màu sắc cho phù hợp.
_  Ghi chú các ký hiệu:  f phông chữ, tT cỡ chữ,  A  màu chữ. Ta nhấp vào các ký hiệu này để tùy chọn.
_   Ký hiệu nằm sau từ Liên kết  Chèn hình ảnh, ký hiệu kế Chèn hình ảnh  Chèn Nhạc.
_  Sau khi bài viết đã hoàn chỉnh, nhấp vào từ Xuất bản, nhấp tiếp từ Chia sẻ . Cuối cùng nhấp Xem blog.
3/. TẢI ẢNH VÀO BÀI VIẾT:
_  Phải có sẵn ảnh trong My Pictures. Vào Google gõ tìm Google hình ảnh. Nhấp vào từ Google hình ảnh một lần nữa. Sau đó gõ tên hình ảnh muốn tìm ( ví dụ bánh khoái, bánh bột lọc... ) vào ô chữ nhật màu trắng. Nhấp phải vào ảnh ưng ý, một danh sách hiện ra, nhấp trái vào Lưu hình ảnh thành. My Pictures lập tức hiện ra. Nhấp vào từ Save là ảnh sẽ được lưu vào My Pictures.
_  Nhấp vào ký ký hiệu Chèn hình ảnh, nhấp tiếp Chọn Tệp, My Pictures sẽ hiện ra. Sau đó, nhấp tiếp vào ảnh muốn tải lên, nhấp Open. Chờ ảnh tải xong thì nhấp vào từ Thêm  hình ảnh đã chọn. Cuối cùng nhấp phải vào hình để điều chỉnh ảnh lớn nhỏ và vị trí của ảnh.

          



4/. TẢI NHẠC TỪ YOUTUBE MUSIC:
_ Vào Google, gõ tìm Youtube music. Nhấp tiếp vào từ Music Youtube một lần nữa.
_  Gõ tên ca khúc vào ô chữ nhật màu trắng. Chờ các ca khúc hiện ra, nghe trước để chọn một bài ưng ý rồi nhấp vào đó. Nhấp tiếp vào từ Chia sẻ bên dưới Video clip đang phát. Ngay lập tức một link nhạc màu xanh dương hiện ra. Nhấp chuột phải, sau đó nhấp trái từ Sao chép.
_ Trở về bài viết. Nhấp trái vào ký hiệu Chèn video. Nhấp vào dòng chữ Từ Youtube. Một ô chữ nhật hiện ra, nhấp phải và dán link nhạc copy ban nãy vào đó. Nhấp trái vào hình tròn có cán nằm ngay bên phải.
_ Chờ Video clip hiện ra. Nhấp trái vào video. Nhấp Chọn là xong.
_ Nếu không tải được thì làm trở lại, chọn Video clip khác.


                          

5/. TẢI NHẠC TỪ NHẠC CỦA TUI :
_ Vào Google, gõ tìm Nhạc của tui. Nhấp vào từ Nhạc của tui một lần nữa. Chờ ô chữ nhật trắng hiện ra, gõ tên bài hát muốn tìm vào đó.
_ Nhấp vào từ Chia sẻ. Chọn đường link ở giữa nằm sau dòng chữ Copy vào blog, bôi đen và copy link nhạc.
_  Dán vào Word, chỉnh sửa link nhạc dài từ 300 còn 250 và cao từ 308 còn 50 là vừa đẹp, sẽ không hiện ra phần quảng cáo thường thấy ở link Nhạc của tui. Copy link nhạc đã chỉnh sửa mang vào blog để tải lên.
_   Nhấp vào từ HTML nằm phía trên khung dán bài viết mới. Chọn vị trí để dán link nhạc. Dán sau từ br.
_  Dán xong thì nhấp vào từ Viết nằm trước từ HTML là xong.

                         

                                                         


6/. XÓA NHẬN XÉT DO TÁC GIẢ XÓA DỞ VÌ GÕ NHẦM CHỮ, SAI CHÍNH TẢ HAY VIẾT CHƯA RÕ Ý...

         Đôi khi, bạn bè vào blog ghi nhận xét nhưng gõ nhanh bị thiếu chữ, dư chữ, sai chính tả, ý chưa rõ... nên xóa đi để ghi lại. Muốn đẹp blog, ta nhấp vào từ Xóa ở nhận xét xóa dở chừng đó, một trang mới hiện ra, ta nhấp vào từ Xóa vĩnh viễn rồi nhấp OK (Xóa). Nhấp vào đường link có tên của mình, trở về blog sẽ không thấy còn nhận xét xóa dở đó nữa.

7/. KIỂM TRA SPAM (tin nhắn rác):
        Thỉnh thoảng có những nhận xét mà mạng Google cho là rác hay có chứa mã độc sẽ tự động tống vào thùng rác. Ta muốn biết có Spam hay không thì nhấp trái vào Thiết kế, nhấp tiếp Nhận xét, nhấp tiếp Spam . Xem mà không phải là tin rác thì nhấp vào từ Không phải Spam để khôi phục nhận xét đó.
8/. XÓA BÀI ĐÃ ĐĂNG TRÊN BLOG :
         Nhấp vào Thiết kế. Nhấp tiếp từ Bài đăng. Một list bài đăng sẽ hiện ra. Muốn xóa bài nào, rà dòng chữ nằm dưới tựa bài viết đó, tìm từ Xóa và nhấp vào đó. Một cửa sổ hiện ra hỏi lại bạn có thật sự muốn xóa bài viết không, ta nhấp vào từ OK để xác nhận. Ngay lập tức bài viết đó sẽ biến mất vĩnh viễn.
9/. THAY ĐỔI MẬT KHẨU:
           Thỉnh thoảng cũng nên thay đổi mật khẩu để đảm bảo an toàn, riêng tư cho blog. Hãy nhấp vào từ Đăng nhập , thay vì điền địa chỉ Email và mật khẩu như mọi khi, ta nhấp vào dòng chữKhông đăng nhập vào tài khoản của mình được nằm ở bên dưới cùng. Sau đó, Google sẽ hỏi bạn lý do, bạn chọn mục đã quên mất mật khẩu, sau đó làm tiếp theo hướng dẫn của Ban quản lý mạng để thiết lập lại mật khẩu mới. 
10/. CHỌN NHÃN CHO BÀI VIẾT:
         Khi viết bài xong, nhấp vào từ Nhãn nằm sau ký hiệu cây bút chì, về phía  bên phải bài viết. Gõ tên đặt nhãn cho bài viết, ví dụ " Kỹ năng sử dụng blogspot" như ở bài viết này. Sau đó nhấp vào từ Hoàn thành ở bên dưới. Những lần sau nếu bài viết cùng nhóm chủ đề, ta không cần ghi lại tên nhãn mà chỉ cần nhấp vào nhãn có sẵn được lưu lại ở mục Nhãn.
11/ KHÁM PHÁ NHỮNG CHỨC NĂNG KHÁC CỦA BLOGSPOT:
        Nhấp vào từ Thiết kế, rồi nhấp tiếp:
_ Thống kê: sẽ hiện ra số lượt khách vào xem blog của bạn trong hiện tại, ngày, tuần , tháng, mọi nơi mọi lúc. Nhưng bạn phải nhấp chọn thời gian chứ bao giờ Google cũng chỉ lưu mốc thời gian cố định là tuần.
_ Lượng đọc giả : sẽ biết có bao nhiêu lượt khách đang sinh sống tại khắp các nước trên thế giới vào xem blog của ban. Nhớ chọn mốc thời gian như ở trên.
_ Nguồn truy nhập : sẽ biết đích xác blogger nào đã vào thăm blog của mình. Mạng Blogspot sẽ lưu dưới hai dạng, theo URL hay Google chung chung. Cũng nhớ chọn mốc thời gian theo trên.
_ Bài đăng: để theo dõi tất cả các bài viết đã tải lên blogspot của mình. trong mỗi bài có bao nhiêu lượt xem bài, bao nhiêu nhận xét.
_ Nhận xét : để xem tất cả các nhận xét được lưu lại. Từ ở đây, ta cũng có thể xóa bỏ vĩnh viễn những nhận xét không vừa ý mà không cần làm giống như ở mục số 6, đỡ mất công lòng vòng qua nhiều thao tác.
                                                     Ngày 19/10/2013

  Ghi chú : Sưu tầm từ blog của Butsref.                                                                             



                                   

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

TƯƠI NHƯ HOA


Thân tặng các bạn Thất B4 – Tứ B4  1958 – 1962
HÀM NGHI HUẾ

“Ta là học sinh Hàm Nghi tươi như hoa”.
Đó là câu hát đầu tiên của  “Hành khúc học sinh Hàm Nghi” mà mỗi sáng thứ hai đầu tuần, học sinh Hàm Nghi hát nghiêm trang dưới sân cờ theo nhịp tay điều khiển của một bạn bắt nhịp. Âm thanh và hình ảnh khó quên!
Người làm ra những thanh âm ấy đã không còn nữa. Xin một phút nghiêng mình tưởng nhớ người nhạc sỹ - nhà giáo đáng kính. Hình ảnh người thầy phương phi; khuôn mặt hiền từ, đôn hậu; nụ cười Di Lặc mỗi khi tiếp xúc với học trò và nhất là dáng người hơi quá khổ so với chiếc xe Zundap thầy cỡi đến trường mỗi sáng, theo mãi với mỗi học sinh như âm giai tha thiết của  điệu nhớ “Ai về sông Tương”.
Nhưng “Tươi như hoa” rồi cũng đến ngày “Tàn giấc mơ hoa”.
Ngôi trường bị bức tử!

Những học sinh “tươi như hoa” mà mỗi sáng ông thầy trẻ Nguyễn Cửu trắng trẻo đẹp trai dạy Văn của lớp Đệ Thất B4 chúng tôi, với giọng bắc ngọt ngào, tuyên sớ từ Nguyễn Xuân An, Lê Ngọc Anh đầu tiên đến Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thận, Nguyễn Văn Thuận, Lê Trai, Đặng Huỳnh Trâm, Lê Văn Túy, Lê Văn Tuyển và…và cuối cùng Nguyễn Văn Uông, Mai Xuân Vinh ai còn ai mất? Người mất thì đã mất rồi. Người còn thì đã mất trường cũ, tụ lại thành một nhúm, cứ tàn dần với niềm hối tiếc trường xưa.
Người ra đi đầu tiên của lớp tôi là Nguyễn Văn Thị. Chắc nhiều người không nhớ đến cậu này vì chỉ học với chúng ta có mấy tháng ở lớp Đệ Thất rồi bị bệnh qua đời. Tôi nhớ kỹ cậu ấy vì bạn ngồi gần tôi, cái bàn ngang hông cửa dưới vào phòng mà có lần tôi và cậu cùng lơ đểnh nhìn ra sân, chăm chú theo đôi chim ăn sâu trên đọt cây me rồi cùng nhau cười khúc khích. Cậu ta là con nhà giàu trên đường Gia Hội, áo quần luôn tươm tất, đi học bằng chiếc xe đạp nhỏ. Cậu ít nói, khó chơi, không tiếp xúc với ai, nét mặt buồn buồn. Tôi lại là con nhà nghèo, ăn mặc tuềnh toàng nhưng sao vẫn có cảm tình với cậu ấy. Khi nghe nói cậu chết rồi tôi thấy buồn và tiếc cho một đời con nhà giàu mà không được hưởng lộc trời cho … dài dài…
Tôi biết một người bạn lớp Thất B4-Tứ B4 khóa 1958-1962 nữa chết sớm là bạn Huỳnh Văn Thảo. Chuyện này là tôi chỉ nghe thôi, chính xác đến đâu thì không dám chắc. Bạn ấy vào trường Võ bị Dalat năm 1965 hay 1966 gì đó. Tôi gặp bạn ấy mỗi chủ nhât xả trại cùng các bạn Nguyễn Ngọc Khoan cùng lớp ở Hàm Nghi và Nguyễn Hữu Huân cùng lớp ở Quốc Học vài lần trên phố Dalat. Bạn ấy chết trong lần đi giữ an ninh trong cuộc bầu cử Tổng Thống độc diễn Nguyễn Văn Thiệu ở một ấp vùng ven Dalat năm 1967. Có đúng thế không? Nếu bạn Nguyễn Ngọc Khoan mà còn thì minh xác lại cho.
Trong lớp tôi ngày ấy có nhiều cặp bạn hay chơi với nhau. Cặp tôi nói đến đầu tiên là Nguyễn Ngọc Khoan và Nguyễn Xuân An. Hai bạn ở đâu đường Lương Y, chợ Xép gì đấy? Mỗi lần tôi đến nhà Nguyễn Thanh Phong, ở trọ nhà người quen bên ngoài chợ Xép để cùng bạn  đến trường thì đôi lần gặp và đi cùng đường với hai bạn ấy. Nguyễn Xuân An thì cũng đã ra đi mang theo nỗi buồn “Tạm biệt Huế”. Cậu sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Khoan còn không? Ở mô thì xuất đầu lộ diện với anh em đi! Nguyễn Thanh Phong thì nay đang làm việc tại trường Nguyễn Khuyến TP. Hồ Chí Minh mà cũng không tham gia sinh hoạt với Hàm Nghi. Bạn Lê văn Tạo của tôi ơi, hãy đến đó lôi cho được bạn ấy vào “Hàm Nghi yêu dấu” cùa chúng ta đi!
Có một cặp bạn khá nhộn “không thể nào quên”: Phạm Quang Minh-Nguyễn Văn Hoa. Đúng là hai thằng quậy! Nhớ cặp ấy là nhớ tiếng cười của Hoa. Tiếng cười dòn tan, kéo dài!... Cậu này hình như chỉ vào Hàm Nghi nửa chừng. Những năm Thất - Lục - Ngũ không thấy. Minh và Hoa ngồi bàn đầu, chỉ gọi trêu nhau bằng tên bố. Tôi nhớ tên bố Hoa là Bá còn bố Minh tên gì đây nghe cũng vui vui mà quên rồi. Hoa chơi nhiều mà cũng học giỏi. Đúng là thông minh! Còn Minh thì học gạo. Hai cậu ở đâu dưới Bao Vinh, sáng nào cũng đạp xe ngang đường Đào Duy Từ nhà tôi trong khi tôi cuốc bộ để đến trường. Sau này Hoa vào Kỹ sư Phú Thọ rồi du học Mỹ; Minh thì theo ban A  Quốc Học tụng Vạn Vật để vào trường Y. Thành đạt tuyệt vời cả!
Một nhóm “bè lũ bốn tên” Tuấn, Thận, Thuận và (?) hay đi với nhau từ một nơi xa đến trường. Họ có chung tiếng nói lơ lớ như người miệt dưới. Lớn nhất là Tuấn và nhỏ nhất là Thuận. Đi học cùng nhau, trễ là trễ cả bốn tên, đến - về cả bốn tên cùng đi. Thằng Thuận sau này bị ai “chém” mang cái sẹo dài dưới cằm, bị bọn bất trị Tứ 4 tặng cho cái ních nêm “deux bouches”.
Lê văn Túy, Lê Văn Tuyển tên sát nhau trong sổ từ Thất đến Tứ, cùng đi với nhau, lớn nhỏ khác nhau mà khuôn mặt hao hao giống nhau và đầy mụn, tôi cứ tưởng là anh em. Túy lớn  nhất lớp, tôi nghĩ cậu ấy có thể đã có trên hai mươi cái xuân. Khi nào nói chuyện thì cũng là chuyên gái. Còn Tuyển thì khuôn mặt đờ đận. Sau này thất thế, tàn tàn dập dập, bán mì, cà rem trên phố Huế. Một lần ra Huế, tôi có gặp nhưng không giúp được gì cho cậu ấy. Thấy cũng buồn! Nghe nói giờ cậu ấy chết rồi, không biết có phải không?
Hai bạn Lê Viết Trân và Ngô Kim Luyện ở cuối đường Bạch Đằng, dưới cầu Đông Ba (phố hàng đường cũ). Cả hai đều hiền từ, chăm chỉ nhưng học khó vô. Bạn Luyện ở sâu trong làng Thế Lại Thượng, gần nhà thầy Ngô Kha, ở đó còn có bạn Trần Xuân Lễ, học với tôi mà tôi không nhớ rõ là ở Hàm Nghi hay Quốc Học. Tôi hay về nhà bạn Lễ chơi. Bạn ở với ông bà nội già yếu trong ngôi từ đường họ rộng thênh thang, vườn nhiều cây trái và trồng hoa. Bây giờ ba bạn ấy vẫn còn ở dưới đó (Bây giờ là 10 năm trước tôi gặp).
Bạn Đoàn Lít cao lớn, đẹp trai hình như là dân Viện Bảo Anh. Bạn Huỳnh Kim Chất ở đường Lê Huân, gần chợ Cầu Đất, đến trường bằng xe đạp. Bạn Đặng Ngọc Ninh ở góc đường Tịnh Tâm-Đinh Bộ Lĩnh hát  hay, mặc bảnh và thường được thầy Văn Giảng cho lên đài phát thanh Huế hát cùng bạn Xuân An với cái tên Ngọc Long nghe cải lương quá! Bạn Đặng Huỳnh Trâm ở Bao Vinh, bốn năm làm lớp trưởng giữ sổ điểm lớp, bốn năm luôn xếp vị thứ đứng nhất lớp hàng tháng mà đi thi Trung Học Đệ Nhất cấp không được nhất lớp. Bạn Lê Văn Tạo thì nhỏ con mà nhanh như sóc, năm Đệ Tứ  hình như ngồi gần Nguyễn Phùng ở giữa cửa dưới phía bên trong. (Tôi ngồi giữa cửa dưới phía bên ngoài ông cai, cùng bàn với Huỳnh Văn Thảo). Bạn Ngô Văn Tôn, chừng ở đâu  trong đường Âm Hồn, có cái tên “khêu gợi” hay bị mấy thằng nghịch B4 gắn thêm một tiếng âm lờ có dấu huyền đi theo khiến bạn tức điên lên mà không biết làm gì được. Hai bạn Lê Văn Phước và Lê Đình Phước gần nhau trong sổ mà nhà thì “nghìn trùng xa cách”. Văn Phước ở đâu dưới Bao Vinh còn Hữu Phước (Phước cứt vịt!) ở hẻm sau hồ Thượng Tứ-Tràng Tiền. Một lần về Huế tôi gặp Phước cứt vịt bán hàng trong chợ Đông Ba. Bây giờ hết cứt vịt đến Phước trà sen!
Học sinh cùng lớp nhưng thuộc nhiều giai tầng xã hội. Tôi hay chơi với Lê Trai và Nguyễn Phùng vì cùng cảnh ngộ. Lê Trai ở hẻm sau đường Ngự Viên. Nguyễn Phùng ở đâu trên Cầu Đất. Phùng chỉ giỏi môn Tiếng Pháp. Mà cái giỏi tiếng Pháp của Phùng là thuộc nhiều Vocabulaire. Chữ gì lão ta cũng nhớ. Phải nói Phùng là người có ý chí. Nhà rất nghèo, áo quần, cái nón cối vá chằng vá đụp thế mà cậu không hề có tí mặc cảm và học qua hết ban  C Quốc Học để lên Đại học. Đáng phục! Còn tôi và Lê Trai phải đứt gánh sang ngang nửa chừng. Lê Trai thì nay đã là một ông già nghỉ hưu lụ khụ trên đường Tạ Quang Bửu, gần Hồ Tịnh Tâm. Tháng 8 vừa rồi ra Huế tôi có đến nhà chơi. Nguyễn Phùng ở đâu tôi không biết. Nếu bạn đọc được những dòng này thì điện cho tôi để nói chuyện tếu ngày xưa cho “bui”. Émail và điện thoại của tôi đã có trong danh mục HNYD. Gõ là ra ngay.
Lớp tôi có cái gã Lê Quang Cử mới thật kỳ khôi! Không biết gã  học võ từ ông thầy nào mà đến trường mặt cứ kênh kênh, gặp ai cũng thách đấu. Tôi đã làm fan hâm mộ, “xủ giặc” để gã ấy đấu với Tuấn ở lớp B3 mấy lần tại vườn hoa Ba Viên. Tuấn thì trắng trẻo, cao to. Cử thì lùn tịt, cứ cúi cúi thúc thủ. Cử ra đòn thì không đến mặt Tuấn mà nhận đòn thì trúng đậm quả ngang tai. Mấy lần đấu là mấy lần toe miệng mà vẫn cứ ham. Nhà Cử ở đâu dưới Bao Vinh, có xe đạp đi học thì cũng là loại khá. Mới đây, Cử đọc bài viết của tôi kể về lớp ở  tập san trường Quốc Học bèn điện cho tôi. Cử đi lính mang lon sỹ quan, sau 75 học tập chưa đủ thời gian thuộc hết bài nên nay còn ở Ban Mê Thuộc học tiếp cho thuộc. Cử nói thế và tôi cũng chỉ biết thế thôi!
Tên Quảng thì lớp tôi có đến hai thằng Quảng. Kim Đình Quảng và Nguyễn Tấn Quảng. Quảng “làm sém ghế nhà trường” của thầy Nguyễn Duy Trí tôi đã kể năm ngoái. Xem trong danh bạ “Hàm Nghi Yêu Dấu” thì hình như cậu ấy hiện ở Bình Dương. Còn Nguyễn Tấn Quảng, nhà ở gần cuối đường Lê Huân, trước mặt trường Trần Cao Vân, thì từ “những ngày xưa thân ái” đến giờ tôi không gặp. Cậu ấy tôi nghi là kẻ đã “thám hiểm” (bóp, rờ, đụng, mò…) chim quí của thầy Uyển “dzẽa dzẽa như con chó bò” tôi cũng đã kể năm ngoái vì cậu ấy đã nhanh nhẩu rút khỏi "hiện trường" ngay sau khi “gây án” xong để bọn chúng tôi bị thầy gọi ra từ dưới bục giáo viên, bắt đứng lên bục giảng, đối diện với mấy chục thằng quỷ nghe một thôi tiếng Quảng “mát” cả hai tai. Thỉnh thoảng chúng tôi còn bị thầy lôi ra đẩy mấy vòng trong sân cái của nợ chiếc xe con cóc hay chết máy, không démarreur được của thầy.
Nói chuyện “đứt gánh nửa đường” “lỡ bước sang ngang”  khi “tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng” phải từ giã mái trường thì cần kể đến hai loại. Loại bỏ học vì lý do nào đó và loại “sang ngang” theo trường nghề.
Qua hết năm Đệ Thất thì lớp tôi mất hai tên: Nguyễn Quang Bê và Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Quang Bê thì lớn tuổi, mặt đầy mụn nhưng học yếu và nghe đâu nghỉ học để… để đi… đi lấy vợ (???). Nguyễn Văn Thành ở Kim Long thì tôi rất có cảm tình với anh này. Đẹp trai, nhỏ thó nhưng có cái răng khểnh rất mốt, kể chuyện hay, hấp dẫn thường được thầy Cửu gọi lên kể chuyện cho cả lớp nghe. Nghe nói anh này có chuyện gì đó với một cô nàng, trông anh ngày càng xanh xao, đờ đẫn để cuối cùng gia đình cách ly, gởi anh vào tận Sài Gòn. Hơn năm sau anh về Huế có đến trường thăm lại bạn bè trong lớp và nói chuyện khá lâu. Tôi nhớ mãi hôm ấy anh mặc cái áo sơ mi trắng bỏ xõa ngoài quần jean bó sát trông rất điệu. Anh trở lại hồng hào, nhanh nhẹn và hay cười lộ cái răng khểnh ma quái dễ làm chết lòng nhiều em. Năm sau, trong lớp lại mất thêm bóng Lê Ngọc Anh. Anh là người ở quê lên học Hàm Nghi và trọ trong nhà ông thầy già dạy tư cho trẻ con trong xóm sát hồ Tịnh Tâm, từ khu nhà bò Mã Khái ra khu Thú Y. Năm Đệ Thất tôi trọ ở Mã Khái nên hay ra chơi với anh. Anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Hoàn cảnh anh và tôi khá giống nhau và cuối cùng anh phải bỏ học vì không vượt được hoàn cảnh.
“Sang ngang” theo trường nghề thì ở lớp tôi phải nói sớm nhất là cặp Hoàng Công Hối và Mai Xuân Vinh. Trong lúc bạn bè cùng lớp vào năm học Đệ Tứ thì hai bạn này đậu vào trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Khi tôi thi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp, đi coi bảng ở sân trường thì gặp Vinh và Hối ra nghỉ hè. Trông Vinh tốt mã lắm! Tuy nước da đen ngâm nhưng đã ra vẻ người lớn, cái cười có duyên làm mấy cô đi xem bảng hay liếc nhìn. Hoàng Công Hối thì to cao hẳn ra. Quanh đám học sinh trong sân trường, Hối trội hơn gần cả cái đầu. Qua hết Đệ Tam ở Quốc Học thì có Nguyễn Văn Tuấn và Lê Trai vào trường Cán Sự ở Sài Gòn. Năm Đệ Nhị thì tôi cũng “theo chân…”mấy anh sang ngang một chuyến cuối.
Bạn bè Bê Bối (B4) Hàm Nghi của tôi ai còn ai mất? Bạn cũ xưa đã không nhớ đủ thì “ni răng mà noái” hết được. Lớp Thất 4- Tứ 4 có gần 50 “trự” mà nay ở đâu? Nói đến lớp, bạn và thầy, trong nỗi buồn tiễn thầy Văn Giảng, tôi lại nhớ  một kỷ niệm với thầy. Tôi là  thằng học trò dốt nhạc, không biết đàn, không biết hát mà có một lần được làm chemise môn nhạc. Thế mới lạ chứ! Tiết ấy trả bài thi lục cá nguyệt, vào lớp thầy gọi: “Nguyễn Văn Uông là em nào?” Tôi đứng lên. Thầy nhìn tôi với cái cười hiền nhưng chỉ một nửa. Hai môi thầy mở ra không hết tiếng cười mà cũng không ngậm lại, để hở cả miệng… trông cũng vui! Thầy trao xấp bài cho tôi và tờ giấy làm chemise vì “rừng” đã có “luật” là thằng nào cao điểm nhất môn thi phải được “vinh dự” này. Cả mấy trăm học sinh thầy dạy chắc chưa bao giờ thầy để ý đến tôi. Răng mà qua mặt mấy “cây” siêu nhạc như Ngọc Long, Xuân An được! Nhưng cái đề thi lần ấy thầy có hỏi mấy nốt hòa âm của các game, các quãng chi đó mà theo nhạc lý thì thằng học trò khoái lý luận, tính toán là tôi mò tính ra được. Rứa là được điểm cao! Tôi lui cui làm chemise thì thầy gọi Xuân An lên làm  mấy bài boléro ngọt lịm. Tôi vừa viết vừa lắng nghe. Bây giờ tôi còn nhớ hôm ấy bạn hát bài “Tiếng hát Mường Luông” và “Quán nửa khuya” sao mà hay thế! Tui ít được làm chemise mà sao năm ấy tui có duyên làm mấy lần. Khi nào nói chuyện thầy Hoàng Hữu Tiếu thì tui kể chuyện tui một lần “chó ngáp nhằm ruồi” vượt bạn Trai, bạn Phùng làm chemise môn Pháp Văn mới khoái. Vị chi cũng vì những câu hỏi cắc ké như của ông thầy - nhạc sỹ Văn Giảng mà ra cả.
Thế mà đã hơn 50 năm rồi ấy nhỉ!
Những bạn tôi điểm danh ở đây là theo ký ức nhớ nhớ quên quên của một ông già có gần bảy chục cái xuân xanh lủ khủ lù khù nhưng hoàn toàn là thiện ý mua vui, không có ý gì khác. Bạn nào thấy chột dạ thì tui xin bạn mở rộng lòng từ bi hải hà, hoan hỉ  đại xá cho thằng già thất lễ này. Còn đồng ý thì xin tặng cho một nụ cười ha … ha… thật tươi...thật to. OK nhỉ?