UGNO.VN' S BLOG
Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015
Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015
MÙA THI
Mỗi lần nhìn hoa phượng nhuộm đỏ nắng hè thì bất chợt
trong tôi hiện lại ký ức mùa thi với tiếng ve râm rang trên các vòm xanh theo
các con đường Thành Nội, trong vườn nhà, trong sân trường thưa vắng bước chân học trò. Trường chưa vào nghỉ
hè mà các lớp cuối cấp cứ thưa dần học sinh. Các sỹ tử vùi đầu vào trang sách,
ngày đêm lẩm nhẩm như đọc kinh nhật tụng. Bàn học về khuya còn chong đèn. Cái
đồng hồ bàn hiệu con gà để chậm 2, 3 giờ cứ tích tắc “đánh lừa” thị giác. Các
cột điện đường trên cầu Đông Ba, cầu Gia Hội, cầu Trường Tiền trở thành nơi tụ
hội về khuya của các “nhóm văn nhân” học hành lăng nhăng. Mấy o bán chè khuya
về, chưa hết gánh tạt ngang mời mọc và ghé lại vui vẻ bán hàng, đôi khi chẳng
cần tiền trả. Tất cả hẹn lại về sau!... Mọi sở thích, vui chơi đều gác lại. Đến
tập tiểu tuyết, tạp chí ưa thích cũng chỉ nhìn qua trang bìa rồi gấp lại thật
nhanh. Và câu thơ chợt đến thì…Thôi ! Cứ ngâm nga như Xuân Diệu; “…Mùa thi đã
đến em thơ/ Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau” cho xong môt bần thần tiếc nuối.
Thành phố của tôi có vẻ như chậm lại mọi hoạt động
trong mùa thi. Phố chiều ít người dạo phố. Cái thú “đi nghễ” của nam thanh nữ
tú kinh kỳ vơi bớt cường độ. Mọi nhà dù có con cháu đi thi hay không cũng như
cùng đều chia sẻ niềm háo hức khoa cử. Đại Nội im vắng là nơi ôn tập lý tưởng
nhưng tuyệt nhiên không có bóng hồng. Các nàng “sợ ma” hổng dám! Mấy cậu thì
cũng phải năm ba chàng mới dám vào chiếm lĩnh các gốc cổ thụ để cầm sách đi
quanh, lẩm nhẩm như phù thủy đọc phù chú yểm bùa.
Thời tôi đi thi đã không còn lều chõng mà tôi cứ nhớ
mãi câu thơ của Trần Tế Xương: “Tấp tểnh
người đi tớ cũng đi/ Cũng lều cũng chõng cũng đi thi…”. Và tôi cứ nghêu
ngao câu đó đến ngày cùng bè bạn chen chúc tại trường thi dò số ký danh, phòng
thi với nhiều hồi hộp, vui buồn.
Vào trường thi, hạnh phúc cho cô cậu nào được thi tại
ngôi trường mình học. Mà cũng vui khi được ngồi cùng bàn với cả những nữ sinh.
Kiểu này mà bí bài không đáp ứng những ánh mắt e thẹn cầu cứu của nương nương
thì có nước độn thổ cho xong. Cũng thật buồn khi phải ngồi cạnh mấy ông thí
sinh tự do là lính tráng đi thi, không khéo cho mấy đấng quây cóp thì bị phá
hỏng mất bài không chừng. Một mớ kiến thức ngập tràn trong mấy bộ sách giáo
khoa lọc lại chỉ trong từng mấy câu hỏi, bài tập kiểm tra. “Tủ” kê có đúng chỗ
không? Trật “tủ” thì coi như đi đong. Nỗi buồn “ai đem vỏ chuối liệng sân nhà trường” chàng ta cứ ca cẩm mãi. Đó
là cảm tưởng chung của mấy chàng học hành lơ mơ với điệp khúc: “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín/Thi không
ngậm ớt thế mà cay (thơ Trần Tế Xương), và đành thực hiện phương châm: “Hỏng Tú Tài anh đi Trung sỹ/ Em ở nhà lấy
Mỹ nuôi con/ Bao giờ yên phận nước non/ Anh về anh có Mỹ con anh bồng”.
Không như ngày nay chỉ thi một số môn theo lịch thi
của Bộ Giáo Dục qui định từng năm. Thời
ấy, học môn gì thi môn đó. Có học thì có thi kể cả các môn thể dục, nghệ thuật
thi nhiệm ý (Thi đạt thì cọng thêm điểm, không thi thì thôi, không bắt buộc).
Có môn chính hệ số cao, môn phụ hệ số nhỏ. Tôi học ban B chỉ cần Toán, Lý, Hóa
chắc ăn là cầm chắc phần đỗ. Mấy nàng ban A “tụng” hết cuốn Vạn Vật gần nửa
ngàn trang sách thì thế nào cũng chứng được “Sa di”. Mấy cô cậu ban C thì đãng
đênh như triết nhân bất cần đời thế là đúng gu của “thí sinh cập đệ”. Cái buổi chiều
thi môn cuối cùng nhẹ tênh như mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xanh màu nước
sông Hương. Ai đó đạp xe vội qua cầu,
dựng một nơi nào đó rồi cùng nhau bát bộ mấy vòng trên phố. Ngang góc đường
Phan Bội Châu, đường Trần Hưng Đạo, hãy ghé mắt nhìn vào tiệm ảnh La Cảnh Lưu
xem mấy dung nhan ghi hình kỷ niệm; lên nữa, liếc mắt vào tiệm sách Tân Hoa
ngắm mấy cô con gái đẹp của ông chủ quán; lên ngang rạp chiếu phim Tân Tân, ghé
lại xem chương trình phim mới. Mùi cà phê rang của tiệm cà phê Phấn, cà phê Lạc
Sơn tỏa khắp phố như một chiêu níu chân người quay đến. Dừng lại, vào nhà sách
Ưng Hạ, giả bộ tìm vài cuốn sách để nhìn chị Ry bán hàng tươi cười, thoăn thoắt
bao sách, trao cho người mua. Đôi tay
nhỏ nhắn, xinh xinh… Nốt ruồi duyên…
Ngày treo bảng kẻ vui người buồn. Người đỗ nhận “chứng
chỉ tốt nghiệp tạm thời” do chủ tịch Hội đồng khảo thí ký cấp để chuẩn bị cho các kỳ thi tiếp theo
vào các trường ngành nghề. Người hỏng lui về lo “cày” tiếp mấy pho sách cho kỳ
hai. Lại cũng còn không khí mùa thi!...Chỉ đến khi nào dứt tiếng ve, phượng đã
nhường cành cho lá non và những trái xanh lủng lẳng, thì các sỹ tử cũng đã yên
bề bến đổ. Cánh cửa Đại học Văn khoa, Khoa học, Luật khoa rộng mở là điểm đến
cho các cô cậu Tú đôi không chen chân được vào các trường chuyên nghiệp để rồi
một hai năm làm kiếp sinh viên hờ trước khi bước tiếp vào ngành nghề hay vào
binh nghiệp.
Những ngày thi, không khí thành phố nhộn nhịp bao
nhiêu thì những ngày cuối hè thoáng đượm bao vẻ chia ly như những con tàu rời
bến. Người đi xa, kẻ vào nghề, người tạm biệt phố phường “xếp áo thư sinh vui bước đăng trình mười tám tròn trăng”, tạm biệt
bạn bè, chia tay tuổi học trò về nơi chốn mới. Ai cũng thấy mình lớn lên thì
cũng thấy được mình đã mất thời tuổi hoa
bướm. Tôi có người bạn thơ ấu cùng ở xóm quê. Sau ngày đình chiến 1954,
NĐĐ.(tên người bạn) mới ra lớp ở trường làng. Lên phố, Đ. học sau tôi mấy lớp.
Năm học Đệ Nhất, thành phố biến động, Đ. bị bắt vào nhà lao. Đ. tự học trong tù
và ngày thi có hai cai tù áp giải ra trường thi. Thế mà Đ. cũng đỗ tốt nghiệp
và tiếp tục…ở tù. Ngày “Tổng tiến công Mậu Thân”, từ nhà lao Đ. được thoát ly
ra rừng. Sau 1975 về lại thành phố, Đ. trở thành cán bộ. Gặp lại tôi, Đ. thường
kể lại những kỷ niệm về mái trường và mùa thi. Con người cách mạng của anh như
mềm hơn với những ký ức sân trường và mùa thi đi ra từ nhà tù. Hạnh phúc cho
ai có một thời hoa bướm đi mãi theo cuộc
đời để một lần nhớ lại, nở trên môi nụ cười tiếc nuối. Bạn ấy giờ đã thành
người tàn phế sau một cơn tai biến mạch máu não. Nhà anh gần trường cũ, thường
ngày anh vẫn ngồi xe lăn nhìn học sinh tung tăng đến lớp. Chắc anh cũng nghĩ
đến ngày xưa, trên con đường này, anh đã cất bước xiềng xích tiến vào trường
thi.
Tất cả đã xa rồi…
(Đã dăng Tập san HNYD 12 - 60
NĂM HÀM NGHI HUẾ
1955 - 2015 NXB. THANH NIÊN)
Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015
TIẾNG CHUÔNG CHÙA
Văn chung thinh.
Phiền não khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sinh
Tôi không nhớ bài kệ đó tôi đọc ở đâu, nhưng mỗi lần nghe
tiếng chuông chùa, những câu kệ hiện về và tôi cứ nhẩm đi nhẩm lại. Tiếng
chuông làm nhẹ bớt phiền não, trí huệ sáng hơn và tâm hồn thêm chứng ngộ.
Tiếng chuông làm cho con người đi vào chánh niệm, thức tỉnh.
Giữa không gian mênh mông, tiếng chuông ngân nga ru vào hồn ta, gột bỏ những lo
toan, để lại những những dư âm thiền vị. Tiếng chuông như xua tan mọi phiền muộn, toan tính, đưa ta
về chốn hư không nào đó chỉ còn tiếng chuông và … tiếng chuông: tiếng chuông
mang tính thức chúng
Một ngôi chùa ở chốn thâm u, tiếng đại hồng chung hai kỳ
triêu mộ trở nên quen thuộc với đồng quê
Việt Nam. Đêm khuya về sáng, tiếng chuông thức tỉnh mọi người. Chiều tối trăng
lên, tiếng chuông lắng đọng hồn người. Tiếng chuông là cuộc sống, là hồn quê
gắn bó với bao buồn vui hạnh ngộ.
Vào thơ nhạc, người yêu thơ không ai không biết bài thơ dân
gian về Hà Nội với tiếng chuông chùa:
Gió đưa cành trúc
la đà
Tiếng chuông Trấn
Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Cảnh cành trúc gió đưa la đà bên gương nước Hồ Tây và thanh âm tiếng chuông, canh
gà, nhịp chày… một bức tranh Thăng Long-Hà Nội được vẽ lại vượt quá nét chấm
phá với những địa danh chùa Trấn Vũ,
huyện Thọ Xương, làng Yên Thái… Một Thăng Long-Hà Nội đẹp, trữ tình, gợi cảm.
Nếu có “ý tại ngôn ngoại” chăng thì
chỉ tìm trong cảnh “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”. Thế nhưng nghe
tiếng chuông chùa Trấn Vũ mà còn thấy “mịt mù khói tỏa” thì phải chăng tính thức chúng của tiếng chuông chùa
chỉ lẩn khuất? Tiếng chuông ở đây cũng chỉ là một âm thanh miêu tả bên cạnh
những chi tiết khác. Cảm nhận thiền vị
và mức lay động của tiếng chuông chùa dường như thiếu đi phần nào.
Ta hãy đọc bài thơ Ngự chế “Thiên Mụ chung thanh” của
vua Thiệu Trị:
Cao cương cổ sát
trấn tiền xuyên
Nguyệt tướng thường
viên, tự tại thiên
Bách bát hồng thanh
tiêu bách kết
Tam thiên thế giới
tĩnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật
u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu
đạo vị huyền
Phật tích, Thánh
công thùy hải vũ
Thiện nhân phúc quá
phổ cai diên
Bản dịch thơ cũa Vĩnh Cao:
Tiếng chuông Thiên
Mụ
Gò cao chùa cổ trấn
dòng trong
Như ánh trăng rằm
rạng cõi không
Trăm tám tiếng kình tiêu oán kết
Ba nghìn cõi tục
lắng tơ lòng
Trưa vang văng vẳng
u minh cảm
Sáng vọng ngân nga
đạo vị nồng
Dấu Phật công Thần
vang bốn bể
Nhân lành quả phúc
khắp non sông
(Nguồn: Tạp chí Liễu Quán số 2, tháng 5/2014)
Tiếng chuông làm tiêu oán kết, lắng tơ lòng, cảm đến cõi u
minh, ngân nga mùi thiền vị đạo. Tiếng chuông Thiên Mụ gia trì thức chúng làm vơi phiền não, khai mở trí
huệ, thức tỉnh tâm hồn.
Tiếng chuông chùa Từ Đàm-Huế, nơi uy nghiêm phát nguồn ánh
đạo vàng, nhẹ rung trong mùa pháp nạn, gợi hồn tổ tiên kiêu hùng muôn đời nâng
bước chân con dân thần kinh bảo vệ Chánh pháp:
Quê hương tôi miền
Trung
Sớm hôm chuông chùa
nhẹ rung
Tiếng muôn đời hồn
tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm bóng
chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát
nguồn đạo vàng
Qua bao giông tố
chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
(Trích Từ Đàm quê
hương tôi, nhạc Văn Giảng)
Giai điệu nhạc nhẹ nhàng, trầm hùng, sâu lắng như tiếng
chuông chiều ngân nga, lan tỏa đại hùng, đại lực Phật nơi quê hương thần kinh.
Dù ai xa mấy, tiếng chuông vẫn còn vang vọng cõi lòng.
Làng thơ Việt còn truyền nhau giai thoại về bài thơ “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế, một
thi nhân nổi tiếng đời Đường-Trung Hoa:
Nguyêt lạc ô đề
sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại
Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh
đáo khách thuyền.
Bản dịch thơ của Tản Đà:
Đỗ thuyền đêm ở bến
Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn,
sương rơi
Lửa chài, cây bãi
đối người nằm co
Con thuyền đậu bến
Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San
Giai thoại kể rằng: Trương Kế đậu thuyền ở bến Phong Kiều,
xúc cảnh đêm trăng bên ánh đèn ngư hỏa và hàng phong ven sông, trên không vẳng
lên tiếng quạ kêu sương vọng lại, ông ngâm hai câu thơ đầu rồi tắc tị kiếm mãi
không ra tứ thơ. Lúc ấy trên chùa Hàn Sơn, nhà sư xúc cảnh đêm trăng mông lung
huyền ảo, ngâm hai câu thơ rồi cũng tắc tị không kiếm ra tứ để ngâm tiếp. Một chú
tiểu xúc cảnh đêm trăng, không ngủ được, đến bên thầy và cùng thầy ngâm tiếp
hai câu thơ sau. Hai thầy trò hoàn thành bài thơ. Sư cụ cho gióng hồi chuông,
thành kính tạ ơn Trời Phật. Tiếng chuông vọng đến thuyền, Trương Kế khởi tứ thơ
ngâm tiếp hai câu thơ sau.
Bài thơ của sư cụ và chú tiếu như sau:
Sơ tam, sơ tứ
nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu,
bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ
phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để,
bán phù không.
Bản dịch thơ của Trần Trọng San:
Mồng ba, mồng bốn
trăng mờ
Nửa dường móc bạc, nửa
như cung trời
Một bình ngọc trắng
chia hai
Nửa chìm đáy nước,
nửa cài từng không.
(Nguồn: Thơ Đường,
Trần Trọng San)
Ra ngoài đời, quê tôi phía bắc cố đô, cách Huế không xa.
Thuở ấy chưa mọc lên những công trình xây dựng qui mô, bề thế, đêm đêm tiếng chuông
Thiên Mụ ngân vang, vượt màn sương ru hồn và thức tỉnh cậu bé quê. Tiếng chuông
ngân bên tiếng gà gáy sáng và đôi khi còn có tiếng đại bác ru đêm. Nghe tiếng chuông và lời niệm Quán Thế Âm của
bà tôi, mọi nỗi sợ như được xua tan. Âm thanh ấy theo mãi đời tôi. Đến bây giờ, tai tôi không còn rung
lên tiếng chuông nhưng trong hồn, tôi vẫn còn nghe vang vọng tiếng chuông khuya
và lời niệm của bà. Phật âm và Phật quang diệu kỳ còn ngân vang và chiếu sáng
hồn tôi. Đêm, một lần về quê, tôi không còn nghe rõ hồi chuông Thiên Mụ. Thay
vào, tiếng chuông chùa quê gần gũi, dung
dị giữa khuya là tiếng quê hương tỉnh thức tôi sau bao bước bôn ba kiếm sống. Sau lũy tre làng, hồn quê trở về
với tôi theo tiếng chuông, thứ mà tôi từ lâu tưởng như đã không còn. Tôi thấy
lại bóng Phật-đà diệu kỳ trên hương án và trong hồn mình.
Đảnh lễ Phật trong các khóa trì tụng, tôi nghe tiếng mõ giữ
nhịp đều đều, chen vào là những tiếng chuông tỉnh thức kéo tôi khỏi các vọng
niệm và định tâm theo tiếng kinh và tay lần tràng hạt của chư thầy. Thỉnh một
hồi chuông trước Phật đài, nén nhang tỏa hương đến ba ngàn thế giới Phật và
thấy Phật hiện về bên mình. Nhưng nơi tôi sống bây giờ, tiếng đại hồng chung
tôi cố lắng nghe mỗi khuya dường như không còn được chùa gióng lên nữa trong thành
phố này.
Ôi thiêng liêng và tiếc quá tiếng chuông chùa!
(Đã đăng
Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 227
Ngày 15/6/2015 Phật lịch 2559)
Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013
CÓ MỘT NGÔI TRƯỜNG NHƯ THẾ
(Nhớ về trường Hàm Nghi - Huế)
Ngôi trường điềm đạm giữa ô đất rộng rợp
bóng cây xanh, tọa lạc giữa bốn con đường vuông vắn bàn cờ. Tường thành bao
quanh, cổ kính rêu mốc màu thời gian, ngăn chia sự tĩnh lặng êm đềm giữa trong
ngoài và bốn con đường bao quanh, một sự tĩnh lặng đặc trưng của vùng hoàng
thành đế kinh những ngày không còn vua chúa. Bốn cột trụ biểu trước cổng, nhà
giảng sách, nhà cư xá giám sinh, bia và những pho tượng đá gợi nhớ một quá khứ
xa xưa nào đó, một quá khứ văn hiến với những buổi giảng sách, bình văn. Có cậu
giám sinh nào đó nhiều mơ mộng, thả hồn nương cánh bướm chờn vờn theo những
chùm hoa mù u trắng trên cao, trong tiết bình thơ đầu xuân lất phất bụi phùn.
Ngôi trường ấy khi tôi học đã có sự đổi
thay. Trường không còn các giám sinh, các quan tế tửu, quan tư nghiệp. Chúng
tôi, học sinh và các thầy cô giáo, người học và người dạy, thụ hưởng một nền
giáo dục mới trong tinh thần tôn sư trọng đạo của chốn thư hương truyền thống.
Bây giờ một số thầy đã trở về hư vô, học sinh phần lớn tóc đã bạc trắng. Người
còn lại cùng chung một hoài niệm về ngôi trường có nhiều thăng trầm, yểu mệnh.
Nếu Quốc Tử Giám từ Văn Thánh chuyển về
năm 1907, đến khi bãi bỏ nền giáo dục Hán học, trường đóng cửa, và thời gian
thành lập trường Trung học Hàm Nghi đến khi bị giải thể (1955-1975), thời gian
hoạt động giáo dục triển khai tại ngôi trường này chỉ trên dưới 30 năm. Chung
cục, cả hai trường đều “bất đắc kỳ tử”.Thế mà với ngôi trường ấy tôi vẫn luôn
nhớ về bằng những tình cảm thân thương trìu mến nhất.
Trường tôi học thời ấy có những ông thầy
kỳ lạ. Một thầy dạy Pháp văn năm Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) với cách luyện phát âm
có một không hai. Học sinh nào cũng bị rơi vào bẫy của thầy khi phát âm “u”
trong alphabet tiếng Pháp thành “ou” để bị thầy gõ đầu chọc quê, mua vui cho cả
lớp. Mỗi khi ngồi giảng bài thầy hay rung đùi. Một lần, mấy đứa học sinh ngồi
bàn đầu cười khúc khích mãi. Thầy gặng hỏi mới biết baguette quần thầy quên cài
nút. Thầy nghiêm nghị gọi cả bàn đứng dậy, nói rất nghiêm: “Thầy mở cửa sổ cho mát, cấm nhìn! Chép phạt 100 câu. Mai nộp !”. Rồi
thầy cười òa, cả lớp cũng cười òa… Giờ học của thầy rất nghiêm, học sinh không
bao giờ có tiếng xì xào. Bỗng một tiếng không đẹp lắm, phát ra rất du dương, bổng
trầm, nhịp nhàng như tiếng kèn trompette kéo dài của cậu học sinh nào bụng xấu,
chắc sáng nay ăn thứ gì chưa kịp tiêu hóa hết, ấm ức bất bình tắc minh*. Cả lớp ồ lên cười ngặt nghẽo. Thầy đợi một lúc rồi gọi tác giả của
cái âm thanh kỳ diệu đó đứng lên. “Tôi
không được làm sém ghế nhà trường. Chép phạt 100 câu. Mai nộp!”. Cả lớp lại
có một tràng cười khác… Bây giờ thầy không còn nữa. Thầy đã vĩnh viễn ra đi
trong một biến cố chiến sự. Những cách ứng xử có vẻ thiếu sư phạm trong hành
động nhưng lại rất sư phạm trong việc giải quyết tình huống giáo dục cởi mở, để
đời cho học sinh nhớ và thương thầy.
Lớp Đệ Thất năm ấy của tôi còn có một
thầy trẻ dạy Văn làm giáo sư hướng dẫn, sáng sáng thầy điểm danh thuộc lòng tên
học sinh từ các bạn chữ A đầu tiên đến tên chữ Y cuối cùng, làm học sinh cả lớp
cũng thuộc theo. Thầy dạy Hội Họa nói đặc tiếng Quảng “Dzẽa dzẽa gì như con chó bò!”, với yêu cầu ngày nào cũng khám que
ngắm của học sinh. Một lần thầy ngồi trên bàn chấm bài, những học sinh đã vẽ
xong sớm, mấy cậu xếp hạng thứ ba sau ma quĩ này chui xuống bàn, dám đụng đến
“cái của quí ấy” của thầy. Dữ dằn và bốp chát như thầy, chúng cũng không tha.
Thế là học sinh cả lớp bị phạt phải đứng im tại chỗ, cười không dám ra hơi để
nghe thầy nói một thôi tiếng Quảng.
Năm tôi học Đệ Lục trường tôi có nhiều
giáo sư còn trẻ mới ra trường, chuyển về dạy. Lớp tôi có một cô giáo dạy Toán
và một thầy giáo dạy Vẽ. Cả đôi xinh như Roméo và Juliette. Sự đời có ngược
ngạo thế mà hay. Môn Toán khô khan, trừu tượng phần lớn là ưu thế của phái nam.
Môn nghệ thuật tinh tế, nhẹ nhàng phù hợp nhất cho phái nữ. Sở dĩ tôi có suy
nghĩ đó lúc bấy giờ là vì cả cô dạy Toán lẫn thầy dạy Vẽ đều còn rất trẻ, rất
đẹp và chúng tôi hay ao ước nếu thành một đôi thì đẹp biết bao, cho dù chúng
tôi chưa biết gì về tình trạng gia cảnh của thầy cô. Cô dạy Toán có khuôn mặt,
dáng điệu và cái nhìn ngước lên rất mignonne.Thầy dạy Vẽ thì hay rụt rè, có
phần nhút nhát, nụ cười bẽn lẽn như con gái. Bản thân tôi ngưỡng mộ thầy cô đến
độ Toán học không vô, Vẽ thì không bao giờ hoàn thành được bài tập đạt yêu cầu
về thời gian và điểm số. Phòng học lớp tôi có nhiều cái cột gỗ, cách dãy phòng
lớp Đệ Tứ một cái hiên nhà ngang, có mái che và một nhà để xe cho thầy cô giáo.
Những khi cô thầy chuyển tiết, kẻ ra người vào gặp nhau ở hiên hay nhà xe, thì
chúng tôi có cơ hội ngắm thần tượng qua khung cửa sổ lớp học. Thầy cười tươi
nhưng mặt cứ đỏ lên. Cô thì vẫn liến thoắng, tự tin. Tà áo dài trắng của cô và
vạt chemise trắng của thầy sáng lên dưới nắng chiều, bừng cả một góc trường. Mà
tôi cũng thường để ý cả thầy dạy Vẽ và cô dạy Toán đều thích trang phục màu
trắng hoặc vàng nhạt trẻ trung, lịch sự. Nói ra có vẻ phạm thượng và vô lễ,
mong thầy và cô có đọc những dòng này tha thứ cho. Đây là những suy nghĩ và
tình cảm thánh thiện đầu đời của tuổi mới lớn về thần tượng của mình.
Năm học Đệ Ngũ, lớp tôi lại có một thầy
người Quảng dạy Văn. Thầy nhỏ thó nhưng tính cách cũng rất Quảng. Đệ Ngũ là lớp
học chạy, nghĩa là không có một phòng học cố định như các khối lớp khác. Hôm
ấy, tiết Văn có thanh tra về dự, lớp tôi được học trong phòng thứ hai dãy Đệ
Thất. Học sinh cảm thấy nhột gáy vì nghĩ đến ở dãy bàn cuối, gần mười ánh mắt
các quan thanh tra săm soi. Cả lớp im thin thít, chăm chú nhìn thẳng lên bảng
đen. Không khí nặng nề. Đến phần giải nghĩa các từ trong bài giảng văn nghị
luận, thầy phát vấn “tao đàn” nghĩa là gì? “bi quan” nghĩa là gì? Thường ngày
thì cả lớp nhao nhao giơ tay xin phát biểu, nhưng bữa đó không ai dám. Kẹt quá,
thầy mới gỡ bí: “Dễ thôi, chắc các em đều
đã biết! “Tao đàn” là “tau đờn”. “Bi quan” là viên bi của ông quan… mà không
phải quan thanh tra”. Cả lớp cười ồ theo thầy. Không khí lớp học trở lại tự
nhiên. Thầy trò tiếp tục tiết học bình thường như các buổi không có thanh tra
dự giờ.
Có một thầy dạy lớp tôi năm Đệ Lục môn
Lý Hóa nhưng đến Đệ Tứ thì dạy Sử Địa. Môn gì thầy dạy cũng hay. Nhờ thầy, tôi
từ một học sinh chán học trở thành giỏi Lý Hóa năm Đệ Lục và say mê Sử Địa cho
đến bây giờ. Sau này vào đời, khi trở thành người quản lý giáo dục, trong đợt
rà soát bằng cấp để chuyển những giáo viên dạy chéo môn về lại môn được đào
tạo, tôi thường phân vân và bị phê bình thiếu dứt khoát. Có tình trạng này, một
phần vì do nghiệm lại thành công của thầy tôi xưa kia.
Có một thầy dạy Vạn Vật năm Đệ Tứ tôi
không thể nào quên. Thầy là tác giả bộ sách Vạn Vật từ lớp Đệ Thất đến Đệ Tứ.
Thầy đến trường bằng ô tô, luôn luôn veston complé. Tiết dạy của thầy thì khỏi
phải chê. Vẽ đẹp, nói hay, lưu loát, dẫn dắt bài giảng tuần tự theo từng nét vẽ
trên bảng đen và học sinh vẽ theo vào vở. Kiến thức cô đọng, tinh chắc, rõ
ràng, học đến đâu, luyện tập thực hành đến đó vì vậy học sinh nhớ cả kiến thức
và tranh vẽ minh họa, thuộc bài ngay tại lớp kể cả những bài rất khó nhớ như
bài hệ thần kinh. Chỉ là học sinh Đệ Tứ mà chúng tôi đã có kỹ năng thực hành mổ
chuột, mổ ếch, mổ cá thành thạo. Dạy như thế mà hầu như là tiết nào thầy cũng
có thời gian dành năm bảy phút cuối, kể chuyện cho chúng tôi nghe. Thầy kể
chuyện cũng tuyệt vời như giảng bài. Có những chuyện thầy kể nhiều lần theo yêu
cầu của học sinh, thế mà nghe vẫn thấy gay cấn, hấp dẫn như mới nghe lần đầu
tiên. Đến bây giờ tôi vẫn còn nghe rờn rợn tiếng dép lẹt xẹt, kéo lê bàn chân
tàn phế của của một cựu tù binh người Mỹ, duy nhất sống sót trong một lần cùng
đồng đội vượt ngục, thoát khỏi trại giam của quân đội Nhật, sau trận thua ở
Trân Châu cảng. Mấy năm sau khi chiến tranh kết thúc, một đêm, ông tìm đến đồng
đội cũ để hỏi tội người mà ông ta cho là đã phản bội, làm tất cả bạn vượt ngục
của ông phải bỏ mạng trước họng súng truy quét của kẻ thù. Tiếng dép lẹt xẹt…
lẹt xẹt… khô khốc cứ tiến dần… tiến dần… đến ngôi nhà người phản bội trong một
đêm kinh hoàng… Thầy có một thói quen là giảng bài một hồi thì đưa tay trái lên
miệng, dùng ngón trỏ và ngón cái chùi vết dãi đọng trắng hai khóe môi. Thầy vui
nhưng ít khi cười vì thế học sinh thương thầy mà ít gần.
Có một thầy dạy Toán có trí nhớ tuyệt
vời. Sau kỳ thi lục cá nguyệt, bài thi chưa đến tiết trả, gặp thầy ngoài sân,
học sinh bu lại hỏi điểm. Thầy trả lời điểm từng học sinh mà không cần hỏi tên
từng em, vì thầy không những nhớ điểm mà nhớ cả tên từng học sinh. Một thầy dạy
Văn làm giáo sư hướng dẫn lớp Đệ Tứ để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Thầy có
nhiều cách khai thác một tiết học nên học sinh không có nếp rập khuôn khi thâm
nhập một bài văn. Đây cũng là phương pháp tạo cảm giác mới mẻ trong từng tiết
học. Có những tiết thầy chỉ ngồi đọc cho học sinh chép những bài giảng bình tác
phẩm và thầy bảo học sinh có thể vận dụng cấu trúc này để viết những bài luận
văn hay các tiểu phẩm phân tích, giảng bình thơ văn. Tôi rất thích những bài
này và đọc đi đọc lại nhiều lần. Sau này trở thành một giáo viên dạy Văn, tôi
thường vận dụng cách phân tích này. Học sinh tiếp thu dễ dàng và rất thích thú.
Trường tôi học là một trường mới được
thành lập để đáp ứng nhu cầu ra lớp của học sinh tăng mạnh sau khi chiến tranh
kết thúc. Đến tôi là khóa thứ ba (hoặc 4 ?) tuyển vào 225 học sinh phân thành 5
lớp Đệ Thất. Lớp tôi là lớp thứ tư thường bị chọc quê là “thất bê bối” (7B4).
Phòng học là dãy cư xá 9 phòng của giám sinh xưa, cứ 2 phòng gần nhau thì đập
bỏ vách ngăn giữa để ghép thành 4 phòng học, còn dư một phòng nhỏ sau lớp tôi.
Phòng học vì thế có 2 cửa vào, cửa trên là cửa chính, cửa dưới, ngang hông dãy
bàn học sinh để cho những học sinh hay mơ mộng, lơ đảng như tôi nhìn trời mây,
chim chóc, cây cối ngoài sân. Hành lang trước lớp rộng, lại thiết kế cửa vòm
nên bên trong lớp thường thiếu ánh sáng. Học sinh sau chiến tranh thì nhiều độ
tuổi. Những học sinh gốc gác thành phố chỉ cỡ 11-12 tuổi, nhưng những cu cậu ở
nông thôn đã đến 18-19, phải làm mới “chứng chỉ thế vì khai sinh” hạ tuổi để đủ
điều kiện vào trường. Thầy dạy thì không đồng bộ, có thầy đã đến tuổi nghỉ hưu,
có thầy là quân đội xuất ngũ, có thầy chính ngạch cũng có thầy thỉnh giảng và
chắc ngày đó, nếu có một ông bộ trưởng giáo dục như hôm nay, yêu cầu kiểm tra
bằng cấp và trình độ đào tạo thì khối thầy phải về vườn. Thế mà ai dám bảo ngôi
trường đó không chất lượng bằng những ngôi trường chuẩn, với đội ngũ giáo viên
bằng cấp đầy mình như hôm nay. Thế mới biết giá trị thực không phải và cũng
chẳng cần tâng bốc, đề cao. Người ta tâng bốc, đề cao chỉ để lấp liếm thực chất
còn bất cập của mình.
Trường đó còn nhiều thầy cô trở thành
gương sáng tôi mãi noi theo trong suốt quá trình tôi là một thầy giáo. Dấu ấn
của ngôi trường và các thầy lên cuộc đời tôi thật sâu đậm. Tôi đã trải qua
nhiều trường lớp trong đời sống học đường nhưng nhớ nhiều nhất là ngôi trường
Hàm Nghi cổ kính. Có lẽ thời gian theo học ở trường là giai đoạn để lại cho tôi
nhiều ấn tượng nhất về đời học trò.
Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013
CÁCH SỬ DỤNG MỘT SỐ TÍNH NĂNG CỦA BLOGSPOT (st)
1/. VÀO BLOG :
_ Vào trang
Google, gõ tìm đường link dẫn và blog của mình hay bạn bè.
Ví dụ:
butsref2013.blogspot.com
_ Nhấp vào
tên blog vừa hiện ra. Ví dụ: BUTSREF'S BLOG
_ Nhấp vào từ Đăng nhập, điền Email
và mật khẩu của mình vào ô
cửa sổ hiện ra để chính thức vào nhà, mới có thể đăng bài mới, tải ảnh, tải
nhạc, trả lời nhận xét của bạn bè...
2/. ĐĂNG BÀI
MỚI :
_ Nhấp vào
từ Đăng bài mới nằm góc phải màn hình, cạnh từ Thiết
kế .
_ Khung chữ
nhật to hiện ra, hoặc viết trực tiếp bài vào đó hoặc copy bài có sẵn từ một File nào đó mang sang dán vào. Sau đó chỉnh sửa phông chữ, cỡ chữ, màu sắc cho phù hợp.
_ Ghi chú
các ký hiệu: f phông chữ, tT cỡ chữ, A màu chữ. Ta nhấp vào
các ký hiệu này để tùy chọn.
_ Ký hiệu
nằm sau từ Liên kết là Chèn
hình ảnh, ký hiệu kế Chèn hình ảnh là Chèn Nhạc.
_ Sau khi
bài viết đã hoàn chỉnh, nhấp vào từ Xuất bản, nhấp tiếp từ Chia sẻ . Cuối cùng nhấp Xem blog.
3/. TẢI ẢNH VÀO
BÀI VIẾT:
_ Phải có
sẵn ảnh trong My Pictures. Vào Google gõ tìm Google hình ảnh. Nhấp vào từ
Google hình ảnh một lần nữa. Sau đó gõ tên hình ảnh muốn tìm ( ví dụ bánh
khoái, bánh bột lọc... ) vào ô chữ nhật màu trắng. Nhấp phải vào ảnh ưng ý, một
danh sách hiện ra, nhấp trái vào Lưu
hình ảnh thành. My Pictures lập tức hiện ra. Nhấp vào từ Save là ảnh sẽ được lưu vào My Pictures.
_ Nhấp vào
ký ký hiệu Chèn hình ảnh, nhấp tiếp Chọn Tệp, My Pictures sẽ hiện ra. Sau đó,
nhấp tiếp vào ảnh muốn tải lên, nhấp Open. Chờ ảnh tải xong thì nhấp vào
từ Thêm hình ảnh đã chọn.
Cuối cùng nhấp phải vào hình để điều chỉnh ảnh lớn nhỏ và vị trí của ảnh.
4/. TẢI NHẠC TỪ YOUTUBE MUSIC:
_ Vào Google, gõ tìm Youtube music. Nhấp
tiếp vào từ Music Youtube một lần nữa.
_ Gõ tên ca khúc vào ô chữ nhật màu
trắng. Chờ các ca khúc hiện ra, nghe trước để chọn một bài ưng ý rồi nhấp vào
đó. Nhấp tiếp vào từ Chia sẻ bên dưới Video clip đang phát. Ngay
lập tức một link nhạc màu xanh dương hiện
ra. Nhấp chuột phải, sau đó nhấp trái từ Sao
chép.
_ Trở về bài viết.
Nhấp trái vào ký hiệu Chèn
video. Nhấp vào dòng chữ Từ
Youtube. Một ô chữ nhật hiện ra, nhấp phải và dán link nhạc copy ban nãy vào đó. Nhấp trái vào hình tròn có cán nằm
ngay bên phải.
_ Chờ Video clip
hiện ra. Nhấp trái vào video.
Nhấp Chọn là xong.
_ Nếu không tải
được thì làm trở lại, chọn Video clip khác.
5/. TẢI NHẠC TỪ
NHẠC CỦA TUI :
_ Vào Google, gõ
tìm Nhạc của tui. Nhấp vào từ Nhạc của tui một lần nữa. Chờ ô chữ nhật trắng
hiện ra, gõ tên bài hát muốn tìm vào đó.
_ Nhấp vào từ Chia sẻ. Chọn đường link ở giữa
nằm sau dòng chữ Copy vào blog, bôi đen và copy link nhạc.
_ Dán vào
Word, chỉnh sửa link nhạc dài từ 300 còn 250 và cao từ 308 còn 50 là vừa đẹp, sẽ không hiện ra phần
quảng cáo thường thấy ở link Nhạc của tui. Copy link nhạc đã chỉnh sửa mang vào
blog để tải lên.
_ Nhấp vào
từ HTML nằm phía trên khung dán bài viết mới.
Chọn vị trí để dán link nhạc. Dán
sau từ br.
_ Dán xong
thì nhấp vào từ Viết nằm trước từ HTML là xong.
6/. XÓA NHẬN XÉT DO TÁC GIẢ XÓA DỞ VÌ GÕ NHẦM CHỮ, SAI CHÍNH TẢ HAY VIẾT CHƯA
RÕ Ý...
Đôi khi, bạn bè vào blog ghi nhận xét nhưng
gõ nhanh bị thiếu chữ, dư chữ, sai chính tả, ý chưa rõ... nên xóa đi để ghi
lại. Muốn đẹp blog, ta nhấp vào từ Xóa ở nhận xét xóa dở chừng đó, một trang
mới hiện ra, ta nhấp vào từ Xóa
vĩnh viễn rồi nhấp OK (Xóa). Nhấp vào đường link
có tên của mình, trở về blog sẽ không thấy còn nhận xét xóa dở đó nữa.
7/. KIỂM TRA SPAM (tin nhắn rác):
Thỉnh thoảng có những nhận xét mà mạng Google cho
là rác hay có chứa mã độc sẽ tự động tống vào thùng rác. Ta muốn biết có Spam
hay không thì nhấp trái vào Thiết
kế, nhấp tiếp Nhận xét, nhấp tiếp Spam . Xem mà không phải là
tin rác thì nhấp vào từ Không phải Spam để
khôi phục nhận xét đó.
8/. XÓA BÀI ĐÃ ĐĂNG TRÊN BLOG :
Nhấp vào Thiết
kế. Nhấp tiếp từ Bài đăng.
Một list bài đăng sẽ hiện ra. Muốn xóa bài nào, rà dòng chữ nằm dưới tựa bài
viết đó, tìm từ Xóa và nhấp vào đó. Một cửa sổ hiện ra hỏi
lại bạn có thật sự muốn xóa bài viết không, ta nhấp vào từ OK để xác nhận. Ngay lập tức bài viết đó
sẽ biến mất vĩnh viễn.
9/. THAY ĐỔI MẬT KHẨU:
Thỉnh thoảng cũng nên thay đổi mật
khẩu để đảm bảo an toàn, riêng tư cho blog. Hãy nhấp vào từ Đăng nhập , thay vì điền địa chỉ Email và mật khẩu như mọi
khi, ta nhấp vào dòng chữKhông đăng nhập vào tài khoản của mình được nằm ở bên dưới cùng. Sau đó, Google sẽ
hỏi bạn lý do, bạn chọn mục đã
quên mất mật khẩu, sau đó làm tiếp theo hướng dẫn của Ban quản
lý mạng để thiết lập lại mật khẩu mới.
10/. CHỌN NHÃN CHO BÀI VIẾT:
Khi viết bài xong, nhấp vào từ Nhãn nằm sau ký hiệu cây bút chì, về
phía bên phải bài viết. Gõ tên đặt nhãn cho bài viết, ví dụ " Kỹ
năng sử dụng blogspot" như ở bài viết này. Sau đó nhấp vào từ Hoàn thành ở bên dưới. Những lần sau nếu bài viết
cùng nhóm chủ đề, ta không cần ghi lại tên nhãn mà chỉ cần nhấp vào nhãn có sẵn
được lưu lại ở mục Nhãn.
11/ KHÁM PHÁ NHỮNG CHỨC NĂNG KHÁC CỦA BLOGSPOT:
Nhấp vào từ Thiết
kế, rồi nhấp tiếp:
_ Thống kê: sẽ hiện ra số
lượt khách vào xem blog của bạn trong hiện tại, ngày, tuần , tháng, mọi nơi mọi
lúc. Nhưng bạn phải nhấp chọn thời gian chứ bao giờ Google cũng chỉ lưu mốc
thời gian cố định là tuần.
_ Lượng đọc giả : sẽ biết có bao nhiêu lượt khách đang
sinh sống tại khắp các nước trên thế giới vào xem blog của ban. Nhớ chọn mốc
thời gian như ở trên.
_ Nguồn truy nhập : sẽ biết đích xác blogger nào đã vào
thăm blog của mình. Mạng Blogspot sẽ lưu dưới hai dạng, theo URL hay Google
chung chung. Cũng nhớ chọn mốc thời gian theo trên.
_ Bài đăng: để theo dõi
tất cả các bài viết đã tải lên blogspot của mình. trong mỗi bài có bao nhiêu
lượt xem bài, bao nhiêu nhận xét.
_ Nhận xét : để xem tất cả các nhận xét được lưu
lại. Từ ở đây, ta cũng có thể xóa bỏ vĩnh viễn những nhận xét không vừa ý mà
không cần làm giống như ở mục số 6, đỡ mất công lòng vòng qua nhiều thao tác.
Ngày 19/10/2013
Ghi chú : Sưu tầm từ blog của Butsref.
Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013
TƯƠI NHƯ HOA
Thân tặng các bạn Thất B4 – Tứ B4 1958 – 1962
HÀM NGHI HUẾ
“Ta
là học sinh Hàm Nghi tươi như hoa”.
Đó là câu hát đầu tiên của “Hành khúc học sinh Hàm Nghi” mà mỗi sáng thứ
hai đầu tuần, học sinh Hàm Nghi hát nghiêm trang dưới sân cờ theo nhịp tay điều
khiển của một bạn bắt nhịp. Âm thanh và hình ảnh khó quên!
Người làm ra những thanh âm ấy đã không
còn nữa. Xin một phút nghiêng mình tưởng nhớ người nhạc sỹ - nhà giáo đáng
kính. Hình ảnh người thầy phương phi; khuôn mặt hiền từ, đôn hậu; nụ cười Di
Lặc mỗi khi tiếp xúc với học trò và nhất là dáng người hơi quá khổ so với chiếc
xe Zundap thầy cỡi đến trường mỗi sáng, theo mãi với mỗi học sinh như âm giai
tha thiết của điệu nhớ “Ai về sông
Tương”.
Nhưng “Tươi như hoa” rồi cũng đến ngày “Tàn
giấc mơ hoa”.
Ngôi trường bị bức tử!
Những học sinh “tươi như hoa” mà mỗi sáng
ông thầy trẻ Nguyễn Cửu trắng trẻo đẹp trai dạy Văn của lớp Đệ Thất B4 chúng
tôi, với giọng bắc ngọt ngào, tuyên sớ từ Nguyễn Xuân An, Lê Ngọc Anh đầu tiên
đến Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thận, Nguyễn Văn Thuận, Lê Trai, Đặng Huỳnh Trâm, Lê
Văn Túy, Lê Văn Tuyển và…và cuối cùng Nguyễn Văn Uông, Mai Xuân Vinh ai còn ai
mất? Người mất thì đã mất rồi. Người còn thì đã mất trường cũ, tụ lại thành một
nhúm, cứ tàn dần với niềm hối tiếc trường xưa.
Người ra đi đầu tiên của lớp tôi là
Nguyễn Văn Thị. Chắc nhiều người không nhớ đến cậu này vì chỉ học với chúng ta
có mấy tháng ở lớp Đệ Thất rồi bị bệnh qua đời. Tôi nhớ kỹ cậu ấy vì bạn ngồi
gần tôi, cái bàn ngang hông cửa dưới vào phòng mà có lần tôi và cậu cùng lơ
đểnh nhìn ra sân, chăm chú theo đôi chim ăn sâu trên đọt cây me rồi cùng nhau
cười khúc khích. Cậu ta là con nhà giàu trên đường Gia Hội, áo quần luôn tươm
tất, đi học bằng chiếc xe đạp nhỏ. Cậu ít nói, khó chơi, không tiếp xúc với ai,
nét mặt buồn buồn. Tôi lại là con nhà nghèo, ăn mặc tuềnh toàng nhưng sao vẫn
có cảm tình với cậu ấy. Khi nghe nói cậu chết rồi tôi thấy buồn và tiếc cho một
đời con nhà giàu mà không được hưởng lộc trời cho … dài dài…
Tôi biết một người bạn lớp Thất B4-Tứ B4
khóa 1958-1962 nữa chết sớm là bạn Huỳnh Văn Thảo. Chuyện này là tôi chỉ nghe
thôi, chính xác đến đâu thì không dám chắc. Bạn ấy vào trường Võ bị Dalat năm
1965 hay 1966 gì đó. Tôi gặp bạn ấy mỗi chủ nhât xả trại cùng các bạn Nguyễn
Ngọc Khoan cùng lớp ở Hàm Nghi và Nguyễn Hữu Huân cùng lớp ở Quốc Học vài lần
trên phố Dalat. Bạn ấy chết trong lần đi giữ an ninh trong cuộc bầu cử Tổng
Thống độc diễn Nguyễn Văn Thiệu ở một ấp vùng ven Dalat năm 1967. Có đúng thế
không? Nếu bạn Nguyễn Ngọc Khoan mà còn thì minh xác lại cho.
Trong lớp tôi ngày ấy có nhiều cặp bạn
hay chơi với nhau. Cặp tôi nói đến đầu tiên là Nguyễn Ngọc Khoan và Nguyễn Xuân
An. Hai bạn ở đâu đường Lương Y, chợ Xép gì đấy? Mỗi lần tôi đến nhà Nguyễn
Thanh Phong, ở trọ nhà người quen bên ngoài chợ Xép để cùng bạn đến trường thì đôi lần gặp và đi cùng đường
với hai bạn ấy. Nguyễn Xuân An thì cũng đã ra đi mang theo nỗi buồn “Tạm biệt
Huế”. Cậu sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Khoan còn không? Ở mô thì xuất
đầu lộ diện với anh em đi! Nguyễn Thanh Phong thì nay đang làm việc tại trường
Nguyễn Khuyến TP. Hồ Chí Minh mà cũng không tham gia sinh hoạt với Hàm Nghi.
Bạn Lê văn Tạo của tôi ơi, hãy đến đó lôi cho được bạn ấy vào “Hàm Nghi yêu
dấu” cùa chúng ta đi!
Có một cặp bạn khá nhộn “không thể nào
quên”: Phạm Quang Minh-Nguyễn Văn Hoa. Đúng là hai thằng quậy! Nhớ cặp ấy là
nhớ tiếng cười của Hoa. Tiếng cười dòn tan, kéo dài!... Cậu này hình như chỉ
vào Hàm Nghi nửa chừng. Những năm Thất - Lục - Ngũ không thấy. Minh và Hoa ngồi
bàn đầu, chỉ gọi trêu nhau bằng tên bố. Tôi nhớ tên bố Hoa là Bá còn bố Minh
tên gì đây nghe cũng vui vui mà quên rồi. Hoa chơi nhiều mà cũng học giỏi. Đúng
là thông minh! Còn Minh thì học gạo. Hai cậu ở đâu dưới Bao Vinh, sáng nào cũng
đạp xe ngang đường Đào Duy Từ nhà tôi trong khi tôi cuốc bộ để đến trường. Sau này
Hoa vào Kỹ sư Phú Thọ rồi du học Mỹ; Minh thì theo ban A Quốc Học tụng Vạn Vật để vào trường Y. Thành
đạt tuyệt vời cả!
Một nhóm “bè lũ bốn tên” Tuấn, Thận,
Thuận và (?) hay đi với nhau từ một nơi xa đến trường. Họ có chung tiếng nói lơ
lớ như người miệt dưới. Lớn nhất là Tuấn và nhỏ nhất là Thuận. Đi học cùng
nhau, trễ là trễ cả bốn tên, đến - về cả bốn tên cùng đi. Thằng Thuận sau này
bị ai “chém” mang cái sẹo dài dưới cằm, bị bọn bất trị Tứ 4 tặng cho cái ních
nêm “deux bouches”.
Lê văn Túy, Lê Văn Tuyển tên sát nhau trong
sổ từ Thất đến Tứ, cùng đi với nhau, lớn nhỏ khác nhau mà khuôn mặt hao hao
giống nhau và đầy mụn, tôi cứ tưởng là anh em. Túy lớn nhất lớp, tôi nghĩ cậu ấy có thể đã có trên
hai mươi cái xuân. Khi nào nói chuyện thì cũng là chuyên gái. Còn Tuyển thì
khuôn mặt đờ đận. Sau này thất thế, tàn tàn dập dập, bán mì, cà rem trên phố
Huế. Một lần ra Huế, tôi có gặp nhưng không giúp được gì cho cậu ấy. Thấy cũng
buồn! Nghe nói giờ cậu ấy chết rồi, không biết có phải không?
Hai bạn Lê Viết Trân và Ngô Kim Luyện ở
cuối đường Bạch Đằng, dưới cầu Đông Ba (phố hàng đường cũ). Cả hai đều hiền từ,
chăm chỉ nhưng học khó vô. Bạn Luyện ở sâu trong làng Thế Lại Thượng, gần nhà
thầy Ngô Kha, ở đó còn có bạn Trần Xuân Lễ, học với tôi mà tôi không nhớ rõ là
ở Hàm Nghi hay Quốc Học. Tôi hay về nhà bạn Lễ chơi. Bạn ở với ông bà nội già
yếu trong ngôi từ đường họ rộng thênh thang, vườn nhiều cây trái và trồng hoa.
Bây giờ ba bạn ấy vẫn còn ở dưới đó (Bây giờ là 10 năm trước tôi gặp).
Bạn Đoàn Lít cao lớn, đẹp trai hình như
là dân Viện Bảo Anh. Bạn Huỳnh Kim Chất ở đường Lê Huân, gần chợ Cầu Đất, đến
trường bằng xe đạp. Bạn Đặng Ngọc Ninh ở góc đường Tịnh Tâm-Đinh Bộ Lĩnh
hát hay, mặc bảnh và thường được thầy
Văn Giảng cho lên đài phát thanh Huế hát cùng bạn Xuân An với cái tên Ngọc Long
nghe cải lương quá! Bạn Đặng Huỳnh Trâm ở Bao Vinh, bốn năm làm lớp trưởng giữ
sổ điểm lớp, bốn năm luôn xếp vị thứ đứng nhất lớp hàng tháng mà đi thi Trung
Học Đệ Nhất cấp không được nhất lớp. Bạn Lê Văn Tạo thì nhỏ con mà nhanh như
sóc, năm Đệ Tứ hình như ngồi gần Nguyễn
Phùng ở giữa cửa dưới phía bên trong. (Tôi ngồi giữa cửa dưới phía bên ngoài
ông cai, cùng bàn với Huỳnh Văn Thảo). Bạn Ngô Văn Tôn, chừng ở đâu trong đường Âm Hồn, có cái tên “khêu gợi” hay
bị mấy thằng nghịch B4 gắn thêm một tiếng âm lờ có dấu huyền đi theo khiến bạn
tức điên lên mà không biết làm gì được. Hai bạn Lê Văn Phước và Lê Đình Phước
gần nhau trong sổ mà nhà thì “nghìn trùng xa cách”. Văn Phước ở đâu dưới Bao
Vinh còn Hữu Phước (Phước cứt vịt!) ở hẻm sau hồ Thượng Tứ-Tràng Tiền. Một lần
về Huế tôi gặp Phước cứt vịt bán hàng trong chợ Đông Ba. Bây giờ hết cứt vịt
đến Phước trà sen!
Học sinh cùng lớp nhưng thuộc nhiều giai
tầng xã hội. Tôi hay chơi với Lê Trai và Nguyễn Phùng vì cùng cảnh ngộ. Lê Trai
ở hẻm sau đường Ngự Viên. Nguyễn Phùng ở đâu trên Cầu Đất. Phùng chỉ giỏi môn
Tiếng Pháp. Mà cái giỏi tiếng Pháp của Phùng là thuộc nhiều Vocabulaire. Chữ gì
lão ta cũng nhớ. Phải nói Phùng là người có ý chí. Nhà rất nghèo, áo quần, cái
nón cối vá chằng vá đụp thế mà cậu không hề có tí mặc cảm và học qua hết
ban C Quốc Học để lên Đại học. Đáng
phục! Còn tôi và Lê Trai phải đứt gánh sang ngang nửa chừng. Lê Trai thì nay đã
là một ông già nghỉ hưu lụ khụ trên đường Tạ Quang Bửu, gần Hồ Tịnh Tâm. Tháng
8 vừa rồi ra Huế tôi có đến nhà chơi. Nguyễn Phùng ở đâu tôi không biết. Nếu
bạn đọc được những dòng này thì điện cho tôi để nói chuyện tếu ngày xưa cho
“bui”. Émail và điện thoại của tôi đã có trong danh mục HNYD. Gõ là ra ngay.
Lớp tôi có cái gã Lê Quang Cử mới thật kỳ
khôi! Không biết gã học võ từ ông thầy
nào mà đến trường mặt cứ kênh kênh, gặp ai cũng thách đấu. Tôi đã làm fan hâm
mộ, “xủ giặc” để gã ấy đấu với Tuấn ở lớp B3 mấy lần tại vườn hoa Ba Viên. Tuấn
thì trắng trẻo, cao to. Cử thì lùn tịt, cứ cúi cúi thúc thủ. Cử ra đòn thì
không đến mặt Tuấn mà nhận đòn thì trúng đậm quả ngang tai. Mấy lần đấu là mấy
lần toe miệng mà vẫn cứ ham. Nhà Cử ở đâu dưới Bao Vinh, có xe đạp đi học thì
cũng là loại khá. Mới đây, Cử đọc bài viết của tôi kể về lớp ở tập san trường Quốc Học bèn điện cho tôi. Cử
đi lính mang lon sỹ quan, sau 75 học tập chưa đủ thời gian thuộc hết bài nên
nay còn ở Ban Mê Thuộc học tiếp cho thuộc. Cử nói thế và tôi cũng chỉ biết thế
thôi!
Tên Quảng thì lớp tôi có đến hai thằng
Quảng. Kim Đình Quảng và Nguyễn Tấn Quảng. Quảng “làm sém ghế nhà trường” của
thầy Nguyễn Duy Trí tôi đã kể năm ngoái. Xem trong danh bạ “Hàm Nghi Yêu Dấu”
thì hình như cậu ấy hiện ở Bình Dương. Còn Nguyễn Tấn Quảng, nhà ở gần cuối
đường Lê Huân, trước mặt trường Trần Cao Vân, thì từ “những ngày xưa thân ái”
đến giờ tôi không gặp. Cậu ấy tôi nghi là kẻ đã “thám hiểm” (bóp, rờ, đụng, mò…)
chim quí của thầy Uyển “dzẽa dzẽa như con chó bò” tôi cũng đã kể năm ngoái vì
cậu ấy đã nhanh nhẩu rút khỏi "hiện trường" ngay sau khi “gây án” xong để bọn
chúng tôi bị thầy gọi ra từ dưới bục giáo viên, bắt đứng lên bục giảng, đối
diện với mấy chục thằng quỷ nghe một thôi tiếng Quảng “mát” cả hai tai. Thỉnh
thoảng chúng tôi còn bị thầy lôi ra đẩy mấy vòng trong sân cái của nợ chiếc xe
con cóc hay chết máy, không démarreur được của thầy.
Nói chuyện “đứt gánh nửa đường” “lỡ bước
sang ngang” khi “tiếng ve nức nở buồn
hơn tiếng lòng” phải từ giã mái trường thì cần kể đến hai loại. Loại bỏ học vì
lý do nào đó và loại “sang ngang” theo trường nghề.
Qua hết năm Đệ Thất thì lớp tôi mất hai
tên: Nguyễn Quang Bê và Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Quang Bê thì lớn tuổi, mặt đầy
mụn nhưng học yếu và nghe đâu nghỉ học để… để đi… đi lấy vợ (???). Nguyễn Văn
Thành ở Kim Long thì tôi rất có cảm tình với anh này. Đẹp trai, nhỏ thó nhưng
có cái răng khểnh rất mốt, kể chuyện hay, hấp dẫn thường được thầy Cửu gọi lên
kể chuyện cho cả lớp nghe. Nghe nói anh này có chuyện gì đó với một cô nàng,
trông anh ngày càng xanh xao, đờ đẫn để cuối cùng gia đình cách ly, gởi anh vào
tận Sài Gòn. Hơn năm sau anh về Huế có đến trường thăm lại bạn bè trong lớp và
nói chuyện khá lâu. Tôi nhớ mãi hôm ấy anh mặc cái áo sơ mi trắng bỏ xõa ngoài
quần jean bó sát trông rất điệu. Anh trở lại hồng hào, nhanh nhẹn và hay cười
lộ cái răng khểnh ma quái dễ làm chết lòng nhiều em. Năm sau, trong lớp lại mất
thêm bóng Lê Ngọc Anh. Anh là người ở quê lên học Hàm Nghi và trọ trong nhà ông
thầy già dạy tư cho trẻ con trong xóm sát hồ Tịnh Tâm, từ khu nhà bò Mã Khái ra
khu Thú Y. Năm Đệ Thất tôi trọ ở Mã Khái nên hay ra chơi với anh. Anh lớn hơn
tôi mấy tuổi. Hoàn cảnh anh và tôi khá giống nhau và cuối cùng anh phải bỏ học
vì không vượt được hoàn cảnh.
“Sang ngang” theo trường nghề thì ở lớp
tôi phải nói sớm nhất là cặp Hoàng Công Hối và Mai Xuân Vinh. Trong lúc bạn bè
cùng lớp vào năm học Đệ Tứ thì hai bạn này đậu vào trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Khi tôi thi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp, đi coi bảng ở sân trường thì gặp Vinh và
Hối ra nghỉ hè. Trông Vinh tốt mã lắm! Tuy nước da đen ngâm nhưng đã ra vẻ
người lớn, cái cười có duyên làm mấy cô đi xem bảng hay liếc nhìn. Hoàng Công
Hối thì to cao hẳn ra. Quanh đám học sinh trong sân trường, Hối trội hơn gần cả
cái đầu. Qua hết Đệ Tam ở Quốc Học thì có Nguyễn Văn Tuấn và Lê Trai vào trường
Cán Sự ở Sài Gòn. Năm Đệ Nhị thì tôi cũng “theo chân…”mấy anh sang ngang một
chuyến cuối.
Bạn bè Bê Bối (B4) Hàm Nghi của tôi ai
còn ai mất? Bạn cũ xưa đã không nhớ đủ thì “ni răng mà noái” hết được. Lớp Thất
4- Tứ 4 có gần 50 “trự” mà nay ở đâu? Nói đến lớp, bạn và thầy, trong nỗi buồn
tiễn thầy Văn Giảng, tôi lại nhớ một kỷ
niệm với thầy. Tôi là thằng học trò dốt
nhạc, không biết đàn, không biết hát mà có một lần được làm chemise môn nhạc.
Thế mới lạ chứ! Tiết ấy trả bài thi lục cá nguyệt, vào lớp thầy gọi: “Nguyễn
Văn Uông là em nào?” Tôi đứng lên. Thầy nhìn tôi với cái cười hiền nhưng chỉ
một nửa. Hai môi thầy mở ra không hết tiếng cười mà cũng không ngậm lại, để hở
cả miệng… trông cũng vui! Thầy trao xấp bài cho tôi và tờ giấy làm chemise vì
“rừng” đã có “luật” là thằng nào cao điểm nhất môn thi phải được “vinh dự” này.
Cả mấy trăm học sinh thầy dạy chắc chưa bao giờ thầy để ý đến tôi. Răng mà qua
mặt mấy “cây” siêu nhạc như Ngọc Long, Xuân An được! Nhưng cái đề thi lần ấy
thầy có hỏi mấy nốt hòa âm của các game, các quãng chi đó mà theo nhạc lý thì
thằng học trò khoái lý luận, tính toán là tôi mò tính ra được. Rứa là được điểm
cao! Tôi lui cui làm chemise thì thầy gọi Xuân An lên làm mấy bài boléro ngọt lịm. Tôi vừa viết vừa
lắng nghe. Bây giờ tôi còn nhớ hôm ấy bạn hát bài “Tiếng hát Mường Luông” và
“Quán nửa khuya” sao mà hay thế! Tui ít được làm chemise mà sao năm ấy tui có
duyên làm mấy lần. Khi nào nói chuyện thầy Hoàng Hữu Tiếu thì tui kể chuyện tui
một lần “chó ngáp nhằm ruồi” vượt bạn Trai, bạn Phùng làm chemise môn Pháp Văn mới
khoái. Vị chi cũng vì những câu hỏi cắc ké như của ông thầy - nhạc sỹ Văn Giảng mà ra cả.
Thế mà đã hơn 50 năm rồi ấy nhỉ!
Những bạn tôi điểm danh ở đây là theo ký
ức nhớ nhớ quên quên của một ông già có gần bảy chục cái xuân xanh lủ khủ lù
khù nhưng hoàn toàn là thiện ý mua vui, không có ý gì khác. Bạn nào thấy chột
dạ thì tui xin bạn mở rộng lòng từ bi hải hà, hoan hỉ đại xá cho thằng già thất lễ này. Còn đồng ý
thì xin tặng cho một nụ cười ha … ha… thật tươi...thật to. OK nhỉ?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)